Tải sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại Tác giả : Daron Acemoglu - James A. Robinson Tải sách Miễn Phí Nội dung sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại LỜI KHEN NGỢI MỤC LỤC LỜI GIỚI THIỆU LỜI NÓI ÐẦU 1. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU 2. CÁC LÝ THUYẾT […]
c. Ứng viên cần có mục tiêu nghề nghiệp rõ ràng. Nếu bạn xác định được mục tiêu nghề nghiệp rõ ràng, bạn sẽ biết được mình cần phải làm gì và học gì ở công ty. Trong môi trường làm việc đầy cạnh tranh và áp lực tại các công ty đa quốc gia, bạn sẽ nhanh chóng
Tại sao các quốc gia thất bại? - một câu hỏi tưởng như khó nhằn nhưng tác giả đã lập luận rất tốt, và đưa ra câu trả lời: đó là thể chế, thể chế chính trị quyết định sự thành công hay thất bại của một quốc gia, tại sao quốc gia này giàu, tại sao Hoa Kỳ lại phát triển được như ngày nay, hay tại sao quốc gia này suốt mấy chục năm vẫn luôn sống trong lạc hậu và nghèo đói
Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại. 07/11/2021 Nguyen Jenny DANH MỤC, Kinh Tế, Văn Hóa - Xã hội 0. Tác giả: Daron Acemoglu , James A. Robinson. Thể loại: DANH MỤC, Kinh Tế, Văn Hóa - Xã hội. Số tập: 3. Lượt nghe: 382. 【Tháng: 42 】【Tuần: 4 】【Ngày: 1 】. Mua sách trên TIKI Mua sách trên
Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại. Sử dụng lịch sử Đông-Tây kim-cổ đã diễn ra trên tất cả các châu lục của trái đất này, hai tác giả lập luận rằng những quốc gia thất bại là những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ cho quyền
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. Nói về giấc mơ lớn, nhưng Ngô Hoàng Gia Khánh - Phó TGĐ của Tiki vẫn giữ vẻ ngoài rất giản dị Áo phông “truyền thống” màu xanh Tiki, quần bò, giày thể thao. Anh chia sẻ, bản thân có rất nhiều áo phông của Tiki để thay đổi và mặc mãi không chán. Ngoại hình của Gia Khánh có vẻ như chính là hình ảnh sàn thương mại điện tử Tiki trong mắt người tiêu dùng Dân văn phòng U30, đeo kính cận, thích đọc sách và yêu đồ công nghệ. Từ nước ngoài, cơ duyên nào khiến anh về Việt Nam và chọn làm việc tại Tiki? Trước Tiki, tôi chưa từng làm cho bất cứ công ty nào của người Việt. Sau thời gian sống và làm việc ở Indonesia, Singapore, tôi muốn về Việt Nam, cùng xây dựng một công ty do người Việt làm chủ. Khi gặp anh Sơn Trần Ngọc Thái Sơn –Founder & CEO Tiki cùng đội ngũ lãnh đạo của công ty, tôi cảm nhận họ là những người thực sự tử tế, hình ảnh của Tiki từ trước tới giờ cũng rất chân thành và thân thiện. Vì thế, tôi nghĩ bản thân sẽ hợp với nơi này. Ở đó 5 năm, anh cảm thấy thế nào? Rất khó! Khó hơn tôi nghĩ rất nhiều. Có quá nhiều biến số! Vì mỗi ngành hàng mới mở ra, lại giống như phải startup lần nữa. Ví dụ, Thế Giới Di Động là công ty bán lẻ rất mạnh mảng điện tử. Nhưng phải sau hơn 10 năm, họ mới mở thêm mảng bán lẻ khác là Bách hóa Xanh. Còn ở Tiki, cứ vài quý lại có thêm ngành hàng mới Mỹ phẩm, thời trang, hàng điện tử - điện lạnh, dịch vụ số... Thứ hai là áp lực cực kỳ lớn của công ty khi chưa có lợi nhuận vì cần liên tục đầu tư. Sẽ luôn có nỗi sợ Tiki không thể trụ vững và phải rời bỏ cuộc chơi. Thứ ba là thị trường đang cạnh tranh quá khốc liệt. Điều gì khiến anh luôn có nỗi sợ Tiki không trụ vững và phải rời bỏ cuộc chơi? Từ khi tôi tham gia Tiki, có khoảng 4 lần công ty gặp khó. Lúc đó, mọi người thường nói vui là công ty đã chui vào… “quan tài” rồi nhưng phút chót lại may mắn hồi sinh. Một kỷ niệm đáng nhớ là hồi năm 2016-2017, chỉ còn vài ngày nữa là đến kỳ trả lương cho nhân viên, nhưng tài khoản công ty không còn bao nhiêu tiền. Lúc đó, công ty áp dụng chính sách trong thời chiến, tức là sẽ trả lương từ dưới lên trên, bắt đầu từ cấp bậc thấp nhất. Những người có chức vụ càng cao với khả năng tài chính vững hơn một chút sẽ nhận lương sau. Riêng tôi và anh Sơn thống nhất rằng, đối với hai anh em, chuyện không nhận lương 2, 3 tháng không phải là vấn đề. Nhưng những bạn ở vị trí nhân viên chẳng hạn, sẽ gặp áp lực tài chính rất lớn nếu 1, 2 tháng không lương. Ngoài ra, thời điểm đó tôi cũng cần trao đổi và thương lượng rất nhiều với các đối tác về vấn đề thanh toán. Rất may mắn, những đối tác đã làm việc với Tiki 5, 6 năm đều cảm thông và hỗ trợ. Tiki luôn thực hiện đúng lời hứa, nên các đối tác ngày một tin tưởng công ty hơn. Rồi có lần, thứ 6 là ngày chuyển tiền lương và thanh toán nhiều khoản lớn, nhưng tới tận thứ 5, tài khoản của công ty vẫn không đủ tiền. Lúc đó, Tiki đang có một khoản vay ngân hàng và chỉ kịp giải ngân vào “phút 89”. Đúng 10h sáng thứ 6, kế toán trưởng hớt hải gọi điện cho tôi để báo tiền vừa về tới tài khoản. Ngay lập tức, tôi yêu cầu mọi người khẩn trương thanh toán lương cho nhân viên. Một chuyện khá xúc động khi đó là vào khoảnh khắc tin nhắn điện thoại thông báo lương từ ngân hàng đồng loạt vang lên, mọi người cùng đập tay nhau ăn mừng, gương mặt ai cũng rất hạnh phúc. Nhiều người đã nghĩ, ngày hôm đó sẽ không có lương để trang trải phí sinh hoạt. Khi niềm vui bất ngờ đến, nhiều người còn quay video và gửi lại cho tôi xem. Đến giờ, tôi vẫn lưu giữ những hình ảnh đó. Quả là kỉ niệm không thể nào quên. Nhiều công ty khi gặp khó khăn về tài chính vẫn có thể nói rõ với nhân viên và được chia sẻ bằng cách nợ lương. Việc chậm lương như trên có thực sự là vấn đề lớn đến thế? Tôi nhớ, có bạn nhân viên ở Tiki từng nói Đơn hàng đôi lúc bị trễ một chút, nhưng Tiki chưa trễ lương nhân viên lần nào. Bạn ấy còn nhắn tin cho quản lý, nói rằng rất tự hào khi là một thành viên tại Tiki. Tôi rất hạnh phúc vì những điều như vậy. Vì tôi nghĩ, trả lương đầy đủ, đúng hẹn là điều tối thiểu nhất mình phải làm được cho đồng đội. Mình phải giữ chữ tín với họ trước tiên, rồi sau đó mới có thể tròn vai với khách hàng, đối tác. Rất nhiều lần công ty gặp khó và tôi stress tới nỗi ăn không ngon, ngủ không yên. Những lúc quá căng thẳng, tôi thường đi dạo quanh văn phòng, nhìn mọi người làm việc. Lúc đó tôi rất xúc động, cảm xúc cực kỳ khó tả. Nghĩ đến tình cảnh lao đao của công ty, và trước mắt là những đôi tay cần mẫn làm việc tận tâm, tôi luôn tự nhủ, họ là những đồng đội đã chiến đấu cùng mình, và mình không thể để họ thất vọng. Những lúc công ty rơi vào lằn ranh sống – chết, có khi nào anh nghĩ Tiki sẽ sập? Nếu sập, anh sẽ thế nào? Thực sự nỗi sợ ấy từng hiện hữu. Vì có nhiều lúc, cái chết đến rất gần với công ty, gần tới mức tính bằng đơn vị ngày chứ không còn là tháng hay năm. Những khi căng thẳng ấy, tôi cũng không thể chia sẻ với nhiều người, mà chỉ có thể tâm sự với anh Sơn. Có một nỗi sợ công ty sẽ “ra đi”, nhưng vẫn có niềm tin rằng tất cả chúng tôi sẽ cùng nhau vượt qua. Cuối cùng cho dù có thất bại, tôi vẫn tin rằng, Tiki là một trong những người cầm ngọn cờ đầu của ngành e-commerce thương mại điện tử ở Việt Nam. Nếu không còn Tiki thì chắc chắn cũng sẽ có nhiều lớp doanh nghiệp Việt tự hào cầm ngọn cờ ấy đi tiếp, tiếp tục cuộc cạnh tranh khốc liệt với những gã khổng lồ của khu vực. Còn bản thân tôi cũng chưa tưởng tượng được nếu không có Tiki, tôi sẽ ra sao. Có thể anh không suy tính nhiều cho bản thân mình, nhưng nhân viên của anh thì sao? Hồi mới về Tiki cách đây 5 năm, tôi chỉ có duy nhất một nhân viên cấp dưới. Đấy là một cô gái rất chăm chỉ, thông minh và làm mảng tài chính. Bỗng một ngày, bạn ấy xin nghỉ việc. Lúc đó, tình hình công ty rất căng thẳng. Bạn có chia sẻ với tôi rằng, 9 tháng tới bạn dự định sẽ sinh em bé. Vì làm tài chính nên bạn hiểu rõ tình cảnh khó khăn của Tiki lúc bấy giờ. Để đảm bảo chế độ thai sản tốt nhất, bạn ấy cần dứt khoát nghỉ việc ở Tiki, chuyển đi chỗ khác và làm ở đó ít nhất 6 tháng trước sinh. Tôi rất bất ngờ, nhưng không thể không ủng hộ. Vì tôi hiểu rằng, cuối cùng, gia đình vẫn là trên hết. Tôi chia sẻ với bạn, cứ về suy nghĩ một tuần. Nếu sau đó, bạn ấy vẫn muốn nghỉ, tôi sẽ viết thư giới thiệu đến một số công ty mình quen biết và có thể phù hợp với bạn. Không ngờ, một tuần sau bạn quay lại và nói sẽ không nghỉ việc nữa, sẽ tiếp tục chiến đấu cùng mọi người để vượt qua giai đoạn sinh tử này. 9 tháng sau, theo đúng kế hoạch, bạn ấy nghỉ sinh. Và lúc bấy giờ, tình hình của Tiki cũng đã ổn định hơn rất nhiều. Tôi nhớ như in hình ảnh bạn ấy vác bụng bầu to nặng nề đến công ty làm việc miệt mài, đi sớm về khuya cùng các anh chị em. Đến giờ, sau 4-5 năm, bạn ấy đã chào đón thêm thiên thần thứ hai và vẫn đang gắn bó cùng Tiki. Nói vậy, các công ty startup như Tiki không hề có màu hồng? Thật ra là màu hồng, nhưng là màu hồng đất và hồng pha cả xám, đen! cười lớn Mọi người hay nhớ đến những hào quang hay thành công, chứ mấy ai hiểu đằng sau đó là sự hy sinh rất lớn của rất nhiều con người. Và khi đã trải qua những giai đoạn khó khăn như thế, bản thân tôi càng biết trân trọng hơn những anh chị em đã vất vả vì doanh nghiệp, cũng trân trọng hơn những ngày tháng công ty được bình yên và đạt những cột mốc phát triển. Bây giờ Tiki còn lao đao nữa không? Lúc chông chênh là khoảng thời gian đã qua. Còn bây giờ công ty đã vững vàng, lớn mạnh hơn rất nhiều với hơn nhân viên. Và tôi có thể đảm bảo, không một ai phải lo lắng như bạn nhân viên nữ năm ấy nữa. Trước kia, lý do gì khiến Tiki từng khó khăn như thế? Rất nhiều lý do. Cũng có lúc do đầu tư hơi quá tay cười, hoặc đầu tư nhiều nhưng kết quả thu về chậm hơn dự kiến. Ví dụ mình tính toán đầu tư 10 đồng, thu lại trong 2 năm, nhưng thực tế lại mất tới 4 năm. Ngoài ra cũng vì thị trường cạnh tranh rất khốc liệt và thay đổi hành vi người tiêu dùng nhanh chóng. Sau những lần đó, anh rút được bài học gì? Trong việc gọi vốn, bài học đầu tiên là khi nào tiền vào trong tài khoản công ty rồi mới được tính là một thương vụ thành công. Lúc đầu tôi khá ngây thơ, cứ nghĩ ký hợp đồng là xong, và yên tâm tính toán dòng tiền theo đúng hợp đồng đã ký. Nhưng thực tế không dễ dàng như thế. Vì có những sự cố xảy ra không thể lường trước khiến đối tác dù đã ký hợp đồng, vẫn rút lại đề nghị đầu tư vào phút chót. Điều đó dẫn đến việc tính toán dòng tiền không đúng với thực tế, nên công ty sẽ có một đoạn đường rất khó khăn về sau. Những lúc gặp khó, điều gì giúp các anh thoát khỏi rắc rối? Tôi luôn tự vấn lại bản thân vì sao lại bắt đầu với Tiki? Mỗi lần công ty chao đảo, anh em lãnh đạo lại ngồi hỏi nhau rằng Mọi người muốn làm Tiki để làm gì? Để làm một công ty nhỏ nhưng có lãi, hay công ty lớn nhưng rất áp lực về tài chính? Chúng tôi đến cuối cùng đều chọn con đường thứ hai, tức là muốn làm cái gì đó ý nghĩa, mang lại tác động tích cực lớn lao cho nhiều người. Bởi vì nếu công ty bạn quá nhỏ bé, thì dù có sống hay chết, cũng chẳng mấy ai quan tâm. Ví dụ, trước Tiki đã có cả 10 trang thương mại điện tử bán sách, nhưng giờ đây, liệu ai còn nhớ tên? Tôi rất muốn, dù không trụ vững, Tiki vẫn phải có di sản để lại. Nếu mình không còn thì việc chỉ có một người nhớ đến, hay có 10 triệu người nhớ đến, đó là hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau. Hiện tại, Tiki mỗi tháng có active user người dùng hoạt động là 28-30 triệu người, nên tôi tin, nếu nhỡ trộm vía – cười Tiki không còn, sẽ có rất nhiều người buồn và nhớ đến. Theo anh, đâu là khó khăn lớn nhất với một startup lĩnh vực thương mại điện tử như Tiki? Là thu hút người dùng và giữ họ ở lại với mình trong nhiều năm. Vì nhu cầu của họ luôn thay đổi và yêu cầu ngày càng cao. Sau khi Covid-19 xảy ra, mọi tính toán càng cần cẩn trọng hơn. Vì mình đã đổ rất nhiều tiền để thu hút khách sử dụng dịch vụ lần đầu, thì cần phải tính toán xem những người đó sẽ mua tiếp ở Tiki bao nhiêu đơn hàng, sản phẩm tiếp theo họ mua sẽ là gì? Điều đó cũng đòi hỏi dịch vụ của Tiki phải đủ tốt, khiến khách hàng tiếp tục trung thành với nền tảng của mình mà không cần tốn thêm tiền thu hút họ lần nữa. Khi nói về dịch vụ đủ tốt, anh nghĩ sao về một số phản hồi từ khách hàng rằng họ vẫn mua phải sách lậu, hàng kém chất lượng hoặc không giống với hình đăng trên mạng tại Tiki? Tôi cũng từng nghe một số phản ánh như vậy. Thực ra điều đó phụ thuộc vào định nghĩa của từng cá nhân về khái niệm “chính hãng”. Riêng với Tiki, chúng tôi luôn cam kết bán hàng từ chính thương hiệu đó, sản phẩm có đầy đủ giấy phép bán hàng, giấy phép quảng cáo, có thể truy xuất được hóa đơn đỏ… thì đó là hàng chính hãng. Nếu nhà bán hàng nào vi phạm, bán hàng giả và Tiki phát hiện được thì dù chỉ một lần, họ cũng bị đóng tài khoản vĩnh viễn. Trường hợp khách hàng phản ánh đúng, trước tiên Tiki sẽ xin lỗi và có phương án giải quyết ngay cho khách hàng, sau đó làm việc lại với đơn vị bán hàng và có biện pháp xử lý nghiêm khắc. Nhưng cuối cùng, tương lai Tiki sẽ là gì khi hiện nay doanh nghiệp vẫn lỗ chồng lỗ? Tiki vẫn đang trong giai đoạn đầu tư để đánh chiếm thị phần. Vì khi thị phần càng lớn, chi phí phục vụ một đơn hàng càng nhỏ. Thế giới đã có những mô hình thương mại điện tử thành công lớn. Con đường đi của Tiki sẽ giống Amazon. Ban đầu Amazon bán sách và họ cũng tập trung rất nhiều vào khâu vận chuyển, ví dụ giao miễn phí trong vòng 2 ngày. Tiki cũng bắt đầu với sách, và cũng phát triển những dịch vụ giao hàng tối ưu, nhưng là trong vòng 2 giờ chứ không phải 2 ngày. Tất nhiên, vì có những mô hình thành công như Amazon nên Tiki đã học hỏi được rất nhiều. Tương lai, Tiki muốn trở thành thương hiệu quốc dân của Việt Nam trong ngành thương mại điện tử. Hiện nay, Việt Nam đã đi sau doanh nghiệp nước ngoài rất nhiều. Có một thực tế là khi nói về tìm kiếm thì không ai bằng Google, mạng xã hội không ai qua nổi Facebook, gọi xe đã có Grab, đặt nhà hàng, khách sạn có Booking, Agoda thắng thế… Vậy thì người Việt có thể hy vọng vào điều gì? Tiki rất muốn có một chỗ đứng trong lòng của người tiêu dùng Việt Nam, để khi nhắc đến thương mại điện tử, thương hiệu này sẽ xuất hiện đầu tiên trong suy nghĩ của họ. Khi nói về những mục tiêu lớn đó, anh nghĩ có bao nhiêu phần trăm nó sẽ thành hiện thực? Tôi vẫn luôn tin, ngành thương mại điện tử ở Việt Nam chắc chắn sẽ có kỳ lân công ty được định giá 1 tỷ đô trở lên vì thị trường Việt Nam đủ lớn. 100 triệu dân không phải nhỏ vì không có nhiều nước trong khu vực đạt tới quy mô dân số như vậy. Thậm chí trước khi dịch Covid-19 bùng lên, tôi đã nghĩ, Tiki chỉ cần 2-3 năm nữa sẽ hóa thành kỳ lân. Nhưng đại dịch đã khiến mọi tính toán chệch hướng một chút. Có lẽ phải chờ thêm một vài năm nữa khi kinh tế Việt Nam và thế giới ổn định lại, mới biết chắc chắn được Tiki sẽ cần thêm bao nhiêu thời gian để đạt tới vị trí đó. Vậy anh đánh giá gì về những đối thủ lớn khác trên thị trường? Hiện nay thị trường đang ở giai đoạn cạnh tranh quyết liệt để xác định “thế chân vạc”. Vì cuối cùng cũng chỉ cần 2, tối đa 3 thương hiệu cùng tồn tại. Trên thế giới cũng vậy, đến nay chưa có thị trường nào nhiều hơn 3 “người chơi”. Các đối thủ khác đều rất mạnh, có sự hậu thuẫn tài chính rất lớn từ công ty mẹ. Họ là những gã khổng lồ trong khu vực và có những chiến lược cạnh tranh rất đáng học hỏi. Mỗi sàn có thế mạnh riêng. Ví dụ, hình dung của Tiki trong mắt người tiêu dùng rất rõ ràng, đó là một người U30, dân văn phòng, đeo kính cận, rất thích đọc sách và yêu đồ công nghệ. Một số đơn vị khác sẽ có thế mạnh về hàng hóa đa dạng, những cá nhân nhỏ lẻ đều có thể tham gia bán hàng. Tiki có những yêu cầu khác, hàng hóa vẫn phải đủ đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng, nhưng vẫn đảm bảo đã được chọn lọc kỹ càng, chính hãng và giao nhanh. Vì thế đòi hỏi người bán phải đăng ký kinh doanh, kê khai được hóa đơn đỏ, chứng từ đầy đủ, đồng thời Tiki cũng phải đầu tư rất nhiều vào hệ thống logistics và chuỗi cung ứng. Khi anh nói Tiki giống như một nhân viên văn phòng U30, thích đọc sách, yêu đồ công nghệ, đeo kính cận, thì dường như, hình ảnh đó rất giống anh lúc này? Có lẽ giản dị cũng là cách mình hòa hợp với công ty. Ở Tiki, mọi người rất bình dân, không thường xuyên lên đồ…“chanh sả”. Như tôi bây giờ, đi phỏng vấn cũng chỉ mặc quần bò, áo phông cười. Thực ra, nhu cầu cuộc sống của mình rất đơn giản. Ví dụ, tôi chỉ mặc áo mà Tiki tặng và có nhiều cái để thay đổi không thấy chán. Tôi quan niệm, không quan trọng thu nhập của mình ra sao, miễn sao mình cảm thấy thoải mái, không lo lắng về tài chính là được. Đổi lại cho cuộc sống giản dị và luôn suy nghĩ vì công ty, anh có gì? Có niềm vui rất lớn vì khi gắn bó với một doanh nghiệp trẻ như vậy, tôi mới có cơ hội được làm nhiều thứ mà đáng lẽ ở tuổi như mình rất khó được làm. Thứ hai là niềm tự hào. Tôi rất nhớ cảm giác khi được hướng dẫn mẹ dùng ứng dụng Tiki lúc công ty xây được kho hàng ở Đà Nẵng. Tôi đã cài thẻ sẵn cho mẹ và bà có thể mua gì tùy thích, chỉ cần ngồi ở nhà, có người giao tới tận nơi. Khi thấy mẹ vui về những sản phẩm, dịch vụ mà chính mình và các anh chị em đồng nghiệp xây dựng, tôi cũng rất hạnh phúc và tự hào gấp bội. Niềm tự hào nữa là rất nhiều bạn trẻ sau khi rời Tiki đã khởi nghiệp thành công hoặc làm việc cho những công ty công nghệ lớn như Amazon, Walmart, Google… Rõ ràng, Tiki đã giúp họ có sự chuẩn bị rất tốt cho chặng đường sự nghiệp tiếp theo. Thứ ba là niềm tự hào khi Tiki đang có hơn nhân viên và phục vụ rất nhiều khách hàng. Tất nhiên “nuôi nhiều con” sẽ không khỏi vất vả. Nhưng Tiki luôn mong muốn có đủ tài chính để tạo ra nhiều công ăn việc làm có thu nhập cao hơn mặt bằng chung cho tất cả mọi người. Trong số những điều đó, anh tự hào nhất về điều gì? Tự hào vì Tiki rất thuần Việt. Đối với những đơn vị khác, mất thị trường Việt Nam có thể là điều bình thường. Nhưng với Tiki, Việt Nam là máu thịt. Tiki chỉ có Việt Nam nên không có đường lùi và phải quyết sinh ở thị trường này. Trong 2-3 năm tới, Tiki chưa có ý định mở rộng ra nước ngoài. Nhưng dù có mở rộng đi đâu, bằng mọi giá, Tiki vẫn không thể mất thị trường Việt. Tất nhiên nếu nhìn ra khu vực, thị trường Indonesia lớn hơn Việt Nam gấp 3 lần, rồi Philipines, Malaysia hay Đài Loan, Singapore cũng rất lớn, nhưng với Tiki, Việt Nam luôn là thị trường quan trọng nhất. Với Tiki, Việt Nam là máu thịt và luôn là thị trường quan trọng nhất! Xin cảm ơn anh vì cuộc trò chuyện này!
-25% 187,500₫Bạn cũng có thể đặt mua sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại TẠI ĐÂYLưu ý Đơn đặt hàng thành công là đơn hàng được chúng tôi gọi & xác nhận lại qua điện thoại với quý khách ngay trong ngày. Mô tả MÃ GIẢM GIÁ * Giá sản phẩm trên website đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Tuy nhiên tuỳ vào từng loại sản phẩm hoặc phương thức, địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, ..Bạn Có Quan Tâm? Deal Hot DANH SÁCH COUPON Đang mở Sắp mở
Bạn cũng có thể đặt mua sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại TẠI ĐÂYLưu ý Đơn đặt hàng thành công là đơn hàng được chúng tôi gọi & xác nhận lại qua điện thoại với quý khách ngay trong ngày. * Giá sản phẩm trên website đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Tuy nhiên tuỳ vào từng loại sản phẩm hoặc phương thức, địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, ..Bạn Có Quan Tâm?Deal Hot "Tuyệt diệu... xuất sắc nhờ tính đơn giản và sức thuyết phục của nó" - Steven Levitt Sử dụng lịch sử Đông-Tây kim-cổ đã diễn ra trên tất cả các châu lục của trái đất này, hai tác giả lập luận rằng những quốc gia thất bại là những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ cho quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần chúng nhân dân phải trả giá. Thế lực chính trị bị tập trung trong một nhóm nhỏ, được sử dụng để tạo ra tài sản khổng lồ cho những người nắm giữ quyền lực. Trong khi đó, những nước trở nên giàu có là vì người dân nước đó lật đổ giới quyền thế, những người kiểm soát quyền lực, và tạo ra một xã hội trong đó các quyền chính trị được phân phối rộng rãi, trong đó chính phủ có trách nhiệm giải trình và phải đáp ứng trước công dân, và trong đó đại đa số quần chúng có thể tranh thủ các cơ hội kinh tế. Tóm lại, điều cuốn sách muốn nhắm đến là thể chế nào có những điều chỉnh, cải cách để dung hợp được các lợi ích kinh tế-chính trị và tạo điều kiện cho người dân làm ăn sinh sống được tốt nhất sẽ thành công. Như sách đã chỉ ra, ngay như Trung Quốc, khi họ giải quyết được phần nào đó sự dung hợp này, họ đã có sự tăng trưởng thần kỳ. Và giờ đây họ vẫn tiếp tục giải quyết bài toán thể chế dung hợp của họ. Về tác giảDaron Acemoglu được phong danh hiệu Giáo sư Killian chuyên ngành Kinh tế học ở Viện Công nghệ Massachusetts MIT. Năm 2005, ông được tặng Huân chương John Bates Clark dành cho những nhà kinh tế học dưới bốn mươi tuổi được công nhận là đã có những đóng góp quan trọng nhất cho kho tàng tư tưởng và tri thức kinh tế. James A. Robinson là nhà khoa học chính trị và nhà kinh tế học, được phong danh hiệu Giáo sư David Florence về Chính phủ tại Đại học Harvard. Là chuyên gia nổi tiếng thế giới về châu Mỹ Latinh và châu Phi, ông từng làm việc ở Botswana, Mauritius, Sierra Leone, và Nam định"Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại là một quyển sách tuyệt diệu. Acemoglu và Robinson đã nhắm vào một trong những vấn đề quan trọng nhất trong khoa học xã hội - một câu hỏi giày vò các nhà tư tưởng hàng đầu qua nhiều thế kỷ - và đã mang lại lời giải đáp xuất sắc nhờ tính đơn giản và sức thuyết phục của nó. Là sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa lịch sử, khoa học chính trị và kinh tế học, quyển sách này sẽ làm thay đổi cách tư duy của chúng ta về phát triển kinh tế. Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại là một quyển sách mà bạn phải đọc.” - Stevent Levitt, đồng tác giả của tác phẩm Kinh tế học hài hước Freakonomics “Có ba lý do khiến bạn sẽ yêu thích quyển sách này. Nó nói về sự chênh lệnh thu nhập quốc gia trong thế giới hiện đại, có lẽ là vấn để lớn nhất của thế giới ngày nay. Nó lại càng thêm sống động với nhũng câu chuyện kỳ thú làm cho bạn trở nên cuốn hút trong những bữa tiệc cocktail - như lý do gì khiến Botswana thịnh vượng còn Sierra Leone thì không. Và nó rất dễ đọc. Cũng như tôi, bạn không tránh khỏi sẽ đọc quyển sách một mạch từ đầu đến cuối, rồi đọc đi đọc lại thêm nhiều lần nữa.” - Jared Diamond, tác giả của những tác phẩm bán chạy nhất từng đoạt giải Pulitzer như Súng, vi trùng và thép Guns, Germs, and Steel và Sụp đổ Collapse “Một quyển sách hấp dẫn và vô cùng dễ đọc. Và kết luận là một tin vui các thể chế chiếm đoạt’ chuyên quyền như những thể chế đang thúc đẩy tăng trưởng ở Trung Qụốc ngày nay nhất định sẽ kiệt sức. Không có những thể chế dung hợp được hình thành trước tiên ở phương Tây thì sẽ không thể có tăng trưởng bền vững, vì chỉ có một xã hội thực sự tự do mới có thể đem đến sự đổi mới thực thụ cũng như hệ quả tất yếu của nó sự phá hủy sáng tạo.” - Niall Ferguson, tác giả của tác phẩm The Ascent of Money "Trước đây, một triết gia người Xcốt-len ít ai biết đến đã viết một quyển sách về những điều làm các nước thành công và những điều khiến họ thất bại. Qụyển sách Sự Thịnh Vượng Của Các Quốc Gia The Wealth of Nations đến ngày nay vẫn còn được đọc. Với cùng tinh thần sáng suốt và tầm nhìn lịch sử bao quát như thế, Daron Acemoglu và James Robinson đã trả lời câu hỏi tương tự cho thời đại của chúng ta. Sau hai thế kỷ nữa, cháu chắt chút chít của chúng ta cũng sẽ vẫn đọc Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại.” - George Akerlof, giải Nobel kinh tẽ năm 2001 “Quyển sách Tại Sao Các Quốc Gia Thất Bại thật hay trên nhiều phương diện đến mức tôi không chắc có thể kể hết ra được. Nó giải thích về những miền đất rộng lớn trong lịch sử loài người. Dù ở châu Á, châu Phi, hay châu Mỹ nó đều thông thuộc như nhau. Nó công bằng cho cả cánh tả lẫn cánh hữu cũng như mọi xu hướng trung dung. Nó không nện thẳng cánh mà cũng chẳng lăng mạ cốt để lôi cuốn sự chú ý. Nó vừa làm sáng tỏ quá khứ vừa trao cho chúng ta một cách thức mới để tư duy về hiện tại. Chính quyển sách hiếm có trong kinh tế học này sẽ thuyết phục độc giả rằng hai tác giả muốn đem lại những điều tốt đẹp nhất cho những con người bình thường. Nó mang lại cho các học giả những tháng năm tranh luận, cho những độc giả bình thường những năm tháng chuyện trò bên bàn ăn theo kiểu “này, bạn có biết không ...” Nó có những mẩu chuyện vui mà ta luôn luôn đón nhận. Nó là một quyển sách xuất sắc và bạn nên mua ngay, qua đó khuyến khích các tác giả tiếp tục sự nghiệp của mình.” - Charles C. Mann, tác giả cùa 1491 và 1493Mục lụcLời nói đầu Chương 1 Rất gần nhau mà rất khác nhau Chương 2 Những lý thuyết không thuyết phục Chương 3 Tạo ra thịnh vượng và đói nghèo Chương 4 Những khác biệt nhỏ và những thời khắc quyết định - sức nặng của lịch sử Chương 5 "Tôi đã nhình thấy tương lai, và nó đang chạy tốt" - Tăng trưởng trong các thể chế chiếm đoạt Chương 6 Phân hóa thể chế Chương 7 Bước ngoặt thể chế Chương 8 Không phải trên lãnh địa của chúng ta - Các rào cản phát triển Chương 9 Đảo ngược sự phát triển Chương 10 Truyền bá sự thịnh vượng Chương 11 Vòng xoáy đi lên Chương 12 Vòng xoáy đi xuống Chương 13 Tại sao các quốc gia ngày nay thất bại? Chương 14 Phá khuôn Chương 15 Tìm hiểu sự thịnh vượng và đói nghèo Lời cảm ơn Tài liệu và nguồn tra cứuCảm nhận từ độc giả
từ chối các kênh cho diễn biến hòa bình = một quả bom nổ chậm đang kêu tích tắc”. Những người Ai Cập và Tunesia đều đã coi các vấn đề kinh tế của họ cơ bản là do thiếu các quyền chính trị gây ra. Khi những người biểu tình bắt đầu diễn đạt các đòi hỏi của họ một cách có hệ thống hơn, mười hai đòi hỏi đầu tiên được post lên bởi Wael Khalil, một kỹ sự phần mềm và blogger người đã nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của phong trào phản kháng Ai Cập, đã đều tập trung vào sự thay đổi chính trị. Các vấn đề như tăng lương tối thiểu đã xuất hiện chỉ giữa các đòi hỏi chuyển tiếp mà sẽ được thực hiện muộn hơn. Đối với những người Ai Cập, những cái, mà đã néo giữ họ lại, bao gồm một nhà nước không hiệu quả và thối nát và một xã hội nơi họ không thể sử dụng tài năng, khát vọng và sự khéo léo của mình và sự giáo dục mà họ có thể có được. Nhưng họ cũng nhận ra gốc rễ của các vấn đề này là có nguồn gốc chính trị. Tất cả những cản trở kinh tế mà họ đối mặt bắt nguồn từ cách mà quyền lực chính trị được sử dụng và bị độc chiếm bởi một elite hẹp. Đấy, họ hiểu, là cái đầu tiên phải thay đổi. Thế nhưng, khi tin điều này, những người biểu tình ở Quảng trường Tahrir đã bất đồng sâu sắc với sự sáng suốt thông thường về chủ đề này. Khi lập luận, vì sao một nước như Ai Cập lại nghèo, hầu hết các học giả và những người bình luận nhấn mạnh các yếu tố hoàn toàn khác. Một số người nhấn mạnh sự nghèo của Ai Cập chủ yếu là do địa lý của nó quyết định, do sự thực rằng đất nước này hầu như là một sa mạc và thiếu lượng mưa đầy đủ, và rằng đất và khí hậu của nó không cho phép một nền nông nghiệp sinh lợi. Những người khác thì chỉ ra các tính chất văn hóa của những người Ai Cập mà được cho là không thuận cho sự phát triển L I NÓI Đ U Ờ Ầ ● 3 và thịnh vượng kinh tế. Họ cho rằng những người Ai Cập thiếu đúng loại phong cách làm việc và các đặc điểm văn hóa mà đã cho phép các dân tộc khác phát đạt, và thay vào đó đã chấp nhận các niềm tin Islamic không phù hợp với thành công kinh tế. Một cách tiếp cận thứ ba, cách chiếm ưu thế giữa các nhà kinh tế học và các chuyên gia chính sách, lại dựa vào ý niệm rằng các nhà cai trị của Ai Cập đơn giản đã không biết cái gì cần để làm cho đất nước họ phồn thịnh, và đã đi theo các chính sách, các chiến lược sai trong quá khứ. Nếu giá như các nhà cai trị này nhận được lời khuyên đúng từ các cố vấn thích hợp, cách tư duy này tiếp tục, thì sẽ có sự thịnh vượng. Đối với các học giả và chuyên gia chính sách ấy, sự thực rằng Ai Cập bị cai trị bởi elite hẹp, chỉ thu vén cho bản thân họ gây tổn hại cho xã hội, có vẻ không liên quan gì đến việc hiểu các vấn đề kinh tế của nước này. Trong cuốn sách này chúng tôi sẽ biện luận rằng những người Ai Cập ở Quảng trường Tahrir, chứ không phải hầu hết các học giả và các nhà bình luận, đã có ý tưởng đúng. Thực ra, Ai Cập nghèo chính xác bởi vì nó bị cai trị bởi elite hẹp, giới đã tổ chức xã hội vì lợi ích riêng của họ gây tổn hại cho số rất đông quần chúng nhân dân. Quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp, và đã được sử dụng để tạo ra sự giàu có hết sức cho những kẻ nắm quyền, như tài sản 70 tỷ USD có vẻ như đã được cựu Tổng thống Mubarak tích cóp. Những người bị thua thiệt đã là nhân dân Ai Cập, như họ hiểu rất rõ [điều đó]. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng sự giải thích này về sự nghèo của Ai Cập, sự giải thích của nhân dân, hóa ra cung cấp một sự giải thích chung cho câu hỏi vì sao các nước nghèo lại nghèo. Bất luận đó là Bắc Triều Tiên, Sierra Leone, hay Zimbabwe, chúng ta sẽ chứng tỏ rằng các nước nghèo là nghèo vì chính xác cùng lý do mà Ai Cập nghèo. Các nước như Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã trở nên giàu bởi vì các công dân của họ đã lật đổ elite, giới đã kiểm soát quyền lực, và đã tạo ra một xã hội nơi các quyền chính trị được phân phát rộng rãi hơn nhiều, nơi các chính phủ có trách nhiệm giải trình và có trách nhiệm với công dân, và nơi số đông quần chúng nhân dân có thể tận dụng các cơ hội kinh tế. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng để hiểu vì sao có sự bất bình đẳng như vậy trong thế giới ngày nay, chúng ta phải đào sâu vào quá khứ và nghiên cứu động học lịch sử của các xã hội. Chúng ta sẽ thấy rằng lý do mà Vương quốc Anh giàu hơn Ai Cập là bởi vì năm 1688, Vương quốc Anh hay nước Anh, để cho chính xác đã có một cuộc cách mạng mà đã biến đổi hoạt động chính trị và như thế hoạt động kinh tế của quốc 4 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ gia. Nhân dân đã chiến đấu vì và đã giành được nhiều quyền chính trị hơn, và họ đã dùng chúng để mở rộng các cơ hội kinh tế của họ. Kết quả đã là một quỹ đạo chính trị và kinh tế khác một cách căn bản, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công nghiệp. Cuộc Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mà nó mở ra đã không lan sang Ai Cập, vì nước đó đã nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế Ottoman, mà đã đối xử với Ai Cập phần nào theo cùng cách như gia đình Mubarak sau này đã đối xử. Sự cai trị Ottoman ở Ai Cập đã bị Napoleon Bonaparte lật đổ năm 1798, nhưng sau đó mước này rơi vào sự kiểm soát của chủ nghĩa thực dân Anh, mà cũng như Ottoman đã ít quan tâm đến việc thúc đẩy sự thịnh vượng của Ai Cập. Tuy những người Ai Cập đã thoát khỏi được các đế chế Ottoman và Anh, và, năm 1952, đã lật đổ chế độ quân chủ của họ, nhưng đấy đã không phải là các cuộc cách mạng như cách mạng 1688 ở Anh, và thay cho việc biến đổi căn bản hoạt động chính trị ở Ai Cập, chúng lại đưa một elite khác lên nắm quyền, giới cũng chẳng quan tâm đến việc đạt được sự thịnh vượng cho những người dân thường Ai Cập [hệt] như những người Ottoman và Anh đã chẳng quan tâm. Hậu quả là, cấu trúc cơ bản của xã hội đã không thay đổi và Ai Cập vẫn nghèo. Trong cuốn sách này chúng ta sẽ nghiên cứu các hình mẫu này tái tạo mình ra sao theo thời gian và vì sao đôi khi chúng thay đổi như chúng đã thay đổi ở Anh năm 1688 và ở Pháp với cách mạng 1789. Việc này sẽ giúp chúng ta hiểu liệu tình hình ở Ai Cập đã thay đổi hiện nay và liệu cuộc cách mạng đã lật đổ Mubarak sẽ có dẫn đến một tập mới của các thể chế có khả năng mang lại sự thịnh vượng cho những người Ai Cập bình thường hay không. Ai Cập đã có các cuộc cách mạng trong quá khứ mà đã không làm thay đổi tình hình, bởi vì những người tổ chức các cuộc cách mạng đơn giản đã nắm lấy giây cương từ những người mà họ phế truất và đã tạo dựng lại một hệ thống tương tự. Quả thực là khó đối với các công dân bình thường để nắm lấy quyền lực chính trị thực và thay đổi cách xã hội của họ vận hành. Nhưng là có thể, và chúng ta sẽ xem việc này diễn ra thế nào ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và cả ở Nhật Bản, Botswana, và Brazil. Về căn bản chính một sự biến đổi chính trị thuộc loại này là cái cần cho một xã hội nghèo trở thành giàu. Có bằng chứng rằng điều này có thể đang xảy ra ở Ai Cập. Reda Metwaly, một người biểu tình khác ở Quảng trường Tahrir, lập luận, “Bây giờ bạn thấy những người Muslim và những người Ki tô giáo cùng nhau, bây giờ bạn thấy người già L I NÓI Đ U Ờ Ầ ● 5 và người trẻ cùng nhau, tất cả đều muốn cùng một thứ”. Chúng ta sẽ thấy rằng một phong trào rộng như vậy trong xã hội đã là một phần then chốt của cái đã xảy ra trong những biến đổi chính trị khác này. Nếu chúng ta hiểu khi nào và vì sao những sự chuyển đổi như thế xảy ra, chúng ta sẽ ở vị thế tốt hơn để đánh giá khi nào chúng ta kỳ vọng các phong trào như vậy thất bại như chúng đã thường thất bại trong quá khứ và khi nào chúng ta có thể hy vọng rằng chúng sẽ thành công và cải thiện cuộc sống của hàng triệu người. 1. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU NỀN KINH TẾ CỦA RIO GRANDE HÀNH PHỐ NOGALES bị cắt đôi bởi một hàng rào. Nếu bạn đứng cạnh nó và nhìn theo hướng bắc, bạn sẽ thấy Nogales, Arizona, nằm ở Quận Santa Cruz. Thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó là khoảng USD một năm. Hầu hết trẻ vị thành niên ở trường học, và đa số những người lớn là những người đã tốt nghiệp trung học. Bất chấp những tranh luận mà người dân đưa ra về hệ thống chăm sóc sức khỏe Mỹ thiếu sót đến thế nào, dân chúng tương đối khỏe mạnh, với ước tính tuổi thọ cao theo tiêu chuẩn toàn cầu. Nhiều cư dân trên tuổi sáu mươi lăm và có tiếp cận đến Medicare Chăm sóc y tế. Đó chỉ là một trong nhiều dịch vụ do chính phủ cung cấp mà hầu hết được coi là nghiễm nhiên, như điện, điện thoại, hệ thống thoát nước, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, mạng lưới đường kết nối họ với các thành phố khác trong vùng và với phần còn lại của Hoa Kỳ, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luật pháp và trật tự. Nhân dân Nogales, Arizona, có thể tiến hành các hoạt động hàng ngày của họ mà không có sự sợ hãi về đời sống hay sự an toàn và không phải liên tục sợ trộm cắp, sự tước đoạt, hay những thứ khác có thể gây nguy hiểm cho các khoản đầu tư của họ trong các doanh nghiệp và nhà của họ. Quan trọng ngang thế là, người dân Nogales, Arizona, coi là nghiễm nhiên rằng chính phủ, với tất cả sự không hiệu quả và đôi khi tham nhũng của nó, là người đại diện của họ. Họ có thể bỏ phiếu để thay thị trưởng, các thượng và hạ nghị sỹ của họ; họ bỏ phiếu trong các cuộc bầu tổng thống để xác định ai sẽ lãnh đạo nước họ. Dân chủ là bản chất thứ hai của họ. T 8 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ Cuộc sống ở phía nam hàng rào, chỉ cách vài mét, là khá khác. Trong khi cư dân của Nogales, Sonora, sống trong một phần tương đối thịnh vượng của Mexico, thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó bằng khoảng một phần ba của thu nhập ở Nogales, Arizona. Hầu hết người lớn ở Nogales, Sonora, không tốt nghiệp trung học, và nhiều trẻ vị thành niên không đến trường. Các bà mẹ phải lo về tỷ lệ tử vong trẻ em cao. Điều kiện chăm sóc sức khỏe công cộng nghèo nàn cho thấy không có gì ngạc nhiên rằng dân cư của Nogales, Sonora, không sống lâu như các láng giềng phía bắc của họ. Họ không tiếp cận được đến nhiều tiện nghi công cộng. Đường sá trong tình trạng tồi tàn ở phía nam hàng rào. Luật pháp và trật tự trong tình trạng tồi tệ hơn. Tội phạm cao, và mở một doanh nghiệp là một hoạt động rủi ro. Không phải chỉ là bạn có rủi ro bị cướp, mà lấy được tất cả các giấy phép và bôi trơn mọi bàn tay chỉ để mở là nỗ lực không dễ dàng. Dân cư Nogales, Sonora, sống với sự tham nhũng và sự vụng về của các nhà chính trị hàng ngày. Ngược với các láng giềng phương bắc của họ, dân chủ là một trải nghiệm rất mới đây đối với họ. Cho đến các cuộc cải cách năm 2000, Nogales, Sonora, hệt như phần còn lại của Mexico, đã nằm dưới sự kiểm soát thối nát của Đảng Cách mạng Thể chế, hay Partido Revolucionario Institucional PRI. Làm sao mà hai nửa của cái về cơ bản là cùng một thành phố lại khác nhau đến vậy? Không có sự khác biệt nào về địa lý, khí hậu, hay những loại bệnh phổ biến trong vùng này, vì các vi trùng không đối mặt với bất cứ hạn chế nào khi qua lại giữa Hoa Kỳ và Mexico. Tất nhiên, các điều kiện y tế là rất khác nhau, nhưng điều này chẳng liên quan gì đến môi trường bệnh tật; đó là bởi vì nhân dân ở phía nam biên giới sống với các điều kiện vệ sinh thấp kém và thiếu sự chăm sóc sức khỏe tử tế. Nhưng có lẽ người dân là rất khác nhau. Có thể chăng, cư dân của Nogales, Arizona, là con cháu của những người nhập cư từ châu Âu, còn những người ở phía nam là con cháu của những người Aztec? Không phải vậy. Nguồn gốc của người dân ở cả hai bên biên giới là khá giống nhau. Sau khi Mexico trở nên độc lập từ Tây Ban Nha năm 1821, vùng xung quanh “Los dos Nogales” đã là một phần của nhà nước Mexic Vieja California và vẫn thế ngay cả sau Chiến tranh Mexic-Mỹ 1846-1848. Quả thực, chỉ sau [Thỏa thuận] Gadesden Mua năm 1853 mà biên giới Hoa Kỳ mới được mở rộng ra vùng này. Trung úy N. Michler là G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 9 người, trong khi khảo sát biên giới, đã ghi nhận sự hiện diện của “thung lũng Los Nogales nhỏ xinh xắn”. Ở đây, ở cả hai bên biên giới, hai thành phố đã mọc lên. Các cư dân của Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, có chung tổ tiên, thưởng thức cùng loại thức ăn và âm nhạc, và, chúng ta bạo gan để nói có cùng “văn hóa”. Tất nhiên, có một giải thích rất đơn giản và rõ ràng cho những sự khác biệt giữa hai nửa của Nogales mà bạn có lẽ đã đoán từ lâu chính là cái biên giới xác định hai nửa. Nogales, Arizona, là ở Hoa Kỳ. Các cư dân của nó được tiếp cận đến các thể chế kinh tế của Hoa Kỳ, mà cho phép họ lựa chọn nghề của mình một cách tự do, có được sự học hành và các kỹ năng, và khuyến khích những người sử dụng lao động của họ đầu tư vào công nghệ tốt nhất, dẫn đến lương cao hơn cho họ. Họ cũng được tiếp cận đến các thể chế chính trị cho phép họ tham gia vào các quá trình dân chủ, để bầu các đại diện của họ và thay thế chúng nếu chúng cư xử tồi. Hệ quả là, các chính trị gia cung cấp các dịch vụ cơ bản mà công dân đòi hỏi từ chăm sóc sức khỏe công cộng, đến đường sá, luật pháp và trật tự. Những công dân của Nogales, Sonora, không may mắn như vậy. Họ sống trong một thế giới khác được định hình bởi các thể chế khác. Các thể chế khác nhau này tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân của hai Nogales và cho các doanh nhân và doanh nghiệp muốn đầu tư ở đó. Những khuyến khích được tạo ra bởi các thể chế khác nhau của [hai] Nogales và của hai nước tương ứng là lý do chính cho những khác biệt về sự thịnh vượng kinh tế ở hai bên biên giới. Vì sao các thể chế của Hoa Kỳ lại thuận lợi hơn rất nhiều cho thành công kinh tế so với các thể chế của Mexico, và cũng thế của cả phần còn lại của Mỹ Latin? Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở cách mà các xã hội đã hình thành vào đầu thời kỳ thực dân. Một sự phân kỳ thể chế đã xảy ra khi đó, với những tác động kéo dài cho đến ngày nay. Để hiểu sự phân kỳ này chúng ta phải bắt đầu ngay ở việc thiết lập các thuộc địa tại Bắc Mỹ và Mỹ Latin. SỰ THÀNH LẬP BUENOS AIRES Đầu năm 1516, Juan Díaz de Solís, hoa tiêu Tây Ban Nha, đã đi thuyền vào một cửa sông rộng ở Bãi biển phía Đông của Nam Mỹ. Lội lên bờ, de Solís nhận đất 10 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ này cho Tây Ban Nha, đặt tên sông là Riso de la Plata, “Sông Bạc”, bởi vì dân địa phương có bạc. Dân bản địa ở hai bên cửa sông – người Charrúas ở nơi bây giờ là Urugay, và người Querandí trên các đồng bằng được biết đến như Pampas ở Argentina hiện đại – đã coi những kẻ mới đến với sự thù địch. Dân địa phương này đã là những người săn bắt-hái lượm sống trong các nhóm nhỏ mà không có quyền uy chính trị tập trung mạnh. Thật vậy, chính đã là một nhóm Charrúas như vậy đã đánh de Solís bằng gậy cho đến chết khi ông khám phá các vùng mới mà ông đã thử để chiếm cho Tây Ban Nha. Năm 1534, người Tây Ban Nha, vẫn lạc quan, đã gửi một đoàn đầu tiên của những người định cư từ Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo của Pedro de Mendoza. Họ đã lập một thị trấn ở Buenos Aires trong cùng năm. Nó đã phải là một nơi lý tưởng cho những người Âu châu. Buenos Aires, theo nghĩa đen là “không khí trong lành”, đã có một khí hậu ôn hòa, dễ chịu. Thế nhưng cuộc lưu lại đầu tiên của những người Tây Ban Nha ở đó đã ngắn. Họ đã không đi tìm không khí trong lành, mà là tìm tài nguyên để khai thác và lao động để cưỡng bức. Tuy vậy, những người Charrúas và Querandí đã không sốt sắng giúp đỡ. Họ đã từ chối cung cấp thức ăn cho người Tây Ban Nha, từ chối làm việc khi bị bắt. Họ đã tấn công vùng định cư mới bằng cung và mũi tên của mình. Những người Tây Ban Nha bị đói, vì họ đã không lường trước rằng phải tự lo thức ăn cho mình. Buenos Aires đã không phải là cái họ mơ tới. Đã không thể ép buộc dân địa phương để cung cấp lao động. Vùng này đã không có bạc hay vàng để khai thác, và bạc mà de Solís đã thấy thực ra đến suốt lộ trình từ nhà nước Inca trong vùng Andes, xa xôi về phía tây. Những người Tây Ban Nha, trong khi cố sống sót, đã bắt đầu gửi các toán thám hiểm để tìm chỗ mới giàu có hơn và có nhiều dân hơn để dễ cưỡng bức hơn. Năm 1537, một trong các toán thám hiểm này, dưới sự lãnh đạo của Juan de Ayolas, đã thâm nhập ngược Sông Paraná, tìm đường đến những người Inca. Trên đường, nó đã tiếp xúc với người Guaraní, một tộc người tĩnh tại với một nền kinh tế nông nghiệp dựa vào ngô và sắn. De Ayolas ngay lập tức nhận ra rằng người Guaraní là một vấn đề hoàn toàn khác với người Charrúas và Querandí. Sau một xung đột ngắn, những người Tây Ban Nha đã vượt qua sự kháng cự Guaraní và đã thành lập một thị trấn, Nuestra Señora de Santa María de la Asunción, mà vẫn là thủ đô của Paraguay ngày nay. Những người Tây Ban Nha xâm chiếm đã lấy các G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 11 công chúa Guaraní làm vợ và nhanh chóng tự phong mình làm một tầng lớp quý tộc mới. Họ đã thích nghi hệ thống lao động cưỡng bức và cống nạp của người Guaraní, với bản thân họ ở địa vị lãnh đạo. Đấy là loại thuộc địa mà họ đã muốn thiết lập, và trong vòng bốn năm Buenos Aires đã bị bỏ vì tất cả những người Tây Ban Nha định cư ở đó đã chuyển đến thị trấn mới. Buenos Aires, “Paris của Nam Mỹ”, một thành phố với các đại lộ rộng theo kiểu Âu châu dựa trên sự giàu có nông nghiệp tuyệt vời của vùng Pampas, đã không được tái định cư cho đến 1580. Việc từ bỏ Buenos Aires và sự chinh phục người Guaraní tiết lộ logic của việc châu Âu thực dân hóa châu Mỹ. Ban đầu các thực dân Tây Ban Nha và, như chúng ta sẽ thấy, các thực dân Anh đã không quan tâm đến việc tự mình canh tác đất; họ đã muốn những người khác làm việc đó cho họ, và họ đã muốn sự giàu có, vàng và bạc, để vơ vét. TỪ CAJAMARCA… Các cuộc thám hiểm của de Solís, de Mendoza, và de Ayolas đến sau các cuộc thám hiểm nổi tiếng hơn tiếp sau việc Christopher Columbus nhìn thấy một trong các đảo của Bahamas ngày 12-10-1492. Người Tây Ban Nha bắt đầu bành trướng và thuộc địa hóa châu Mỹ một cách dồn dập với việc Hernán Cortés xâm chiếm Mexico năm 1519, cuộc thám hiểm của Francisco Pizzaro đến Peru một thập niên rưỡi sau đó, và cuộc thám hiểm của Pedro Mendoza đến Riso de la Plata đúng hai năm sau đó. Trong thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha đã chinh phục và thuộc địa hóa hầu hết trung, tây, và nam Nam Mỹ, còn Bồ Đào Nha đòi Brazil đến phía đông. Chiến lược thực dân hóa của Tây Ban Nha đã rất hiệu quả. Đầu tiên được hoàn thiện bởi Cortés ở Mexico, nó dựa vào sự quan sát rằng cách tốt nhất cho người Tây Ban Nha để khuất phục sự chống đối đã là bắt lãnh tụ bản địa. Chiến lược này đã cho phép người Tây Ban Nha cướp của cải của lãnh tụ và cưỡng bức dân bản địa cống nạp và cung cấp thức ăn. Bước tiếp theo đã là tự phong mình làm elite mới của xã hội bản địa và nắm quyền kiểm soát các phương pháp hiện tồn về đánh thuế, cống nạp, và đặc biệt, lao động cưỡng bức. Khi Cortés và những người của ông ta đến thủ đô của đại Aztec, Tenochtitlan, ngày 8-11-1519, họ được hoan nghênh bởi Moctezuma, hoàng đế Aztec, người, 12 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ mặc dù có nhiều lời khuyên từ các cố vấn của ngài, đã quyết định tiếp đón những người Tây Ban Nha một cách hữu hảo. Cái gì xảy ra tiếp sau đã được mô tả kỹ trong tường thuật được biên soạn sau năm 1545 bởi thầy tu dòng Franciscan, Bernardino de Saghagún, trong bộ sách Florentine Codices nổi tiếng của ông. Ngay lập lức họ [những người Tây Ban Nha] đã túm chặt lấy Moctezuma … rồi sau đó từng khẩu súng bắn lên trời … Sự sợ hãi bao trùm. Mọi người vãi linh hồn. Ngay cả trước khi trời tối, đã có sự kinh hãi, sự kinh ngạc, sự e sợ, mọi người choáng váng. Và khi trời rạng sáng ngay lúc ấy lộ ra tất cả các thứ [mà những người Tây Ban Nha] đòi hỏi bánh mỳ trắng làm bằng ngô, gà tây nướng, trứng, nước sạch, gỗ, củi, than … Đấy đã là những thứ Moctezuma quả thực đã ra lệnh. Và khi những người Tây Ban Nha đã ổn định xong, ngay lúc ấy họ đã dò hỏi Moctezuma về tất cả kho báu của thành phố … họ đã tìm vàng với sự sốt sắng lớn. Và ngay lúc ấy Moctezuma đã dẫn những người Tây Ban Nha. Họ đã đi bao quanh ông … mỗi người giữ ông, mỗi người túm lấy ông. Và khi họ đến nhà kho, một nơi được gọi là Teocalco, ngay lúc ấy họ đưa ra tất cả những thứ lóng lánh; quạt đầu lông chim quaetzal, các dụng cụ, các huy hiệu, các đĩa vàng … các hình lưỡi liềm vàng, các đai [vòng đeo] chân vàng, các đai tay vàng, các đai trán vàng. Ngay lúc ấy vàng được tách ra … ngay lập tức họ châm lửa, làm cho tất cả các thứ quý giá ấy … bốc cháy. Chúng bị đốt hết. Và những người Tây Ban Nha đúc vàng thành các thỏi tách biệt … Và người Tây Ban Nha đi khắp mọi nơi … Họ tìm mọi thứ, mọi thứ mà họ thấy là tốt. Ngay lúc ấy họ đi đến nhà kho riêng của Moctezuma … ở nơi được gọi là Totocalco … họ lôi ra các tài sản riêng [của Moctezuma] … tất cả các thứ quý giá; các vòng cổ với các tua tòn ten, các đai tay với các túm lông chim quaetzal, các đai tay bằng vàng, các vòng đeo G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 13 tay, các đai bằng vàng với vỏ sò … và vương miện ngọc lam, biểu tượng của người cai trị. Họ lấy hết. Việc chinh phục những người Aztec bằng quân sự đã hoàn tất vào năm 1521. Cortés, với tư cách thống đốc của tỉnh Tây Ban Nha Mới, khi đó đã bắt đầu phân chia tài nguyên quý giá nhất, dân cư bản địa, thông qua thể chế encomienda. Hệ thống điều tiết lao động encomienda đã xuất hiện đầu tiên ở Tây Ban Nha thế kỷ thứ mười lăm như một phần của việc tái chiếm miền nam nước này từ tay những người Moor, Arab, những người đã định cư trong và sau thế kỷ thứ tám. Ở Thế giới Mới nó đã có dạng độc hại hơn nhiều nó đã là việc cấp những người bản địa cho một người Tây Ban Nha, được biết đến như encomandero. Những người bản địa phải cống nạp và lao dịch cho encomandero, đổi lại các dịch vụ đó encomandero có trách nhiệm cải đạo họ sang Ki tô giáo. Một tường thuật ban đầu sống động về hoạt động của encomienda đã đến với chúng ta từ Bartolomé de la Casas, một thầy tu dòng Dominican, người đã trình bày sự phê phán sớm nhất và là một trong những phê phán gây ấn tượng có tính tàn phá nhất về hệ thống thuộc địa Tây Ban Nha. De la Casas đã đến hòn đảo Tây Ban Nha, Hispaniola, năm 1502 với một đội tàu do thống đốc mới, Nicolás de Ovando, đứng đầu. Ông ngày càng trở nên vỡ mộng và bối rối bởi sự cư xử tàn ác và bóc lột đối với người bản địa mà ông chứng kiến hàng ngày. Với tư cách cha tuyên úy ông đã tham gia vào cuộc Tây Ban Nha xâm chiếm Cuba năm 1513, thậm chí được cấp một encomienda cho ông sử dụng. Tuy vậy, ông đã từ bỏ quyền được cấp và đã bắt đầu một cuộc vận động dài để cải cách các thể chế thuộc địa Tây Ban Nha. Các nỗ lực của ông đã đạt đỉnh cao trong cuốn sách của ông, A Short Account of the Destruction of the Indies Một Tường thuật Ngắn về sự Phá hủy Indies, được viết năm 1542, một sự tấn công khinh miệt lên tính dã man của sự cai trị Tây Ban Nha. Về encomienda ông đã có điều này để nói trong trường hợp của Nicaragua Mỗi người định cư đã bắt cư dân trong thị trấn được phân cho ông ta hay được giao cho [encommanded] ông ta, như cách diễn đạt pháp lý, bắt các cư dân làm việc cho mình, ăn cắp thực phẩm hiếm hoi của họ cho chính mình và chiếm đất mà những người bản địa đã sở hữu và đã canh tác mà trên đó họ đã nuôi trồng sản phẩm của họ theo truyền thống. Người định cư đối xử với toàn bộ dân cư bản địa – 14 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ những người quyền cao chức trọng, các ông già, đàn bà và trẻ con – như các thành viên của hộ gia đình mình, và với tư cách như thế, bắt họ làm việc tối ngày vì lợi ích riêng của ông ta, mà không có bất cứ sự nghỉ ngơi nào. Về cuộc chinh phục New Granada, Columbia hiện đại, de la Casas kể lại toàn bộ chiến lược Tây Ban Nha trong hành động Để thực hiện các mục đích dài hạn về chiếm đoạt tất cả số vàng sẵn có, những người Tây Ban Nha đã áp dụng chiến lược thông thường của họ về chia các thị trấn và dân cư của chúng thành từng phần giữa họ với nhau hay giao cho, như họ bảo thế … và sau đó, như từ trước đến giờ, đối xử với họ như các nô lệ thông thường. Người chỉ huy toàn bộ cuộc thám hiểm chiếm lấy Vua của toàn vùng lãnh thổ cho chính mình và giữ ông ta như tù binh trong sáu hay bảy tháng, đòi nhiều và nhiều hơn vàng và ngọc lục bảo từ ông ta một cách hoàn toàn trái phép. Nhà Vua này, một Bogotá, đã khiếp sợ đến mức, vì sự nóng lòng của ông để được giải thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ gây đau khổ cho mình, ông đã đồng ý với đòi hỏi rằng ông sẽ chất vàng đầy một nhà và trao cho họ; để đạt mục đích này ông đã gửi người của mình đi tìm vàng, và từng tí một họ đã mang về nhiều đá quý. Nhưng ngôi nhà vẫn chưa đầy và cuối cùng những người Tây Ban Nha đã tuyên bố rằng họ sẽ giết ông vì sự thất hứa. Người chỉ huy đã gợi ý họ phải đưa ông ra xử trước mặt hắn, với tư cách người đại diện của luật pháp, và khi họ đã làm như thế, đệ trình cáo trạng chống lại nhà Vua, hắn đã kết án ông sẽ bị tra tấn nếu ông vẫn khăng khăng không thực hiện lời hứa đã được thương lượng. Họ đã tra tấn ông bằng cách treo ông lên cao, đặt miếng mỡ đang cháy lên bụng ông, trói cả hai chân ông vào hai cọc với các đai sắt và cổ ông vào cái khác và sau đó, với hai người cầm các tay ông, họ tiến hành đốt gan bàn chân ông. Thỉnh thoảng, viên chỉ huy ngó tới và lặp lại rằng họ sẽ tra tấn ông đến chết một cách từ từ trừ phi ông mang lại nhiều vàng hơn, và đấy là cái họ đã làm, nhà Vua cuối cùng đã không chịu nổi những sự đau đớn mà họ đã gây ra cho ông. G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 15 Chiến lược và các thể chế chinh phục được hoàn thiện ở Mexico đã được chấp nhận một cách háo hức ở những nơi khác trong Đế chế Tây Ban Nha. Không ở đâu việc này được làm một cách hiệu quả hơn việc Pizzaro chinh phục Peru. Như de las Casas bắt đầu tường thuật của ông Vào năm 1531 một tên đại lưu manh khác với một số người đã có cuộc hành trình đến vương quốc Peru. Với quyết tâm và ý định rõ rệt, hắn bắt tay vào việc bắt chước chiến lược và chiến thuật của các đồng bọn phiêu lưu của hắn ở các phần khác của Thế giới Mới. Pizzaro đã bắt đầu trên bờ biển cạnh thị trấn Tumbes của Peru và tiến về phía nam. Ngày 15-11-1532, ông đến thị trấn vùng núi Cajarmarca, nơi hoàng đế Inca, Atahualpa, đã cắm trại với quân đội của ngài. Ngày hôm sau, Atahualpa, người vừa thắng anh trai Huáscar của mình trong cuộc tranh đua ai sẽ kế vị người cha mới chết của họ, Huayna Capac, đã cùng đoàn tùy tùng của mình đến nơi những người Tây Ban Nha cắm trại. Atahualpa đã phát cáu bởi vì tin tức về những hành động tàn bạo mà những người Tây Ban Nha đã gây ra, như xúc phạm đền thờ Thần Mặt trời Inti, đã đến với ngài. Những gì đã xảy ra sau đó là điều nhiều người biết. Người Tây Ban Nha đã đặt một cái bẫy và bật bẫy lên. Họ đã giết những người bảo vệ và người hầu của Atahualpa, có lẽ nhiều đến hai ngàn người, và đã bắt giữ ông. Để được tự do, Atahualpa đã hứa chất vàng đầy một phòng và chất bạc đầy thêm hai phòng nữa có cùng kích thước. Ông đã thực hiện việc này, nhưng những người Tây Ban Nha, không giữ lời hứa của họ, đã treo cổ ông vào tháng Bảy 1533. Tháng Mười một năm ấy những người Tây Ban Nha chiếm được thủ đô Inca, Cusco, nơi giới quý tộc Inca đã bị đối xử như Atahualpa đã bị, bị tống giam cho đến khi họ mang vàng và bạc lại. Khi họ không thỏa mãn các đòi hỏi của người Tây Ban Nha, họ bị thiêu sống. Những báu vật nghệ thuật tuyệt vời của Cusco, như Đền thờ Mặt trời, bị lột mất những phần bằng vàng của chúng và vàng được nấu chảy để đúc thành các thỏi. Tại điểm này những người Tây Ban Nha chú tâm vào người dân của Đế chế Inca. Như ở Mexico, các công dân đã được chia thành các encomienda, với mỗi encomienda được phân cho mỗi kẻ chinh phục người đã đi cùng Pizzaro. Encomienda đã là thể chế chủ yếu được dùng cho việc kiểm soát và tổ chức lao động trong thời gian đầu của thời kỳ thuộc địa, nhưng mau chóng đã đối mặt với một đấu thủ mạnh mẽ. Năm 1545, một người địa phương có tên Diego Gualpa 16 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ đang tìm một điện thờ bản địa cao ở Andes, trong vùng là Bolivia ngày nay. Một cơn giói mạnh bất ngờ đã hất ông xuống đất và trước mặt ông xuất hiện một nơi trữ quặng bạc. Đấy là một phần của một hòn núi bạc mênh mông, mà những người Tây Ban Nha đã đặt tên là El Cerro Rico, “Núi Giàu”. Xung quanh nó đã mọc lên thành phố Potosí, mà ở đỉnh cao của nó trong năm 1650 đã có số dân người, lớn hơn Lisbon hay Venice trong thời kỳ ấy. Để khai thác bạc, những người Tây Ban Nha cần các thợ mỏ – rất nhiều thợ mỏ. Họ đã phái một phó vương, quan chức chính của thuộc địa Tây Ban Nha, Francisco de Toledo, mà sứ mệnh chính của ông đã là để giải quyết vấn đề lao động. De Toledo, đến Peru năm 1569, đầu tiên đã dùng năm năm du hành khắp nơi và tìm hiểu nhiệm vụ mới của ông. Ông cũng đã giao tiến hành một cuộc điều tra đồ sộ về toàn bộ dân cư trưởng thành. Để tìm được lao động mà ông cần, đầu tiên de Toledo đã di chuyển toàn bộ dân cư bản địa, tập trung họ vào các thị trấn mới được gọi là các reduccion – nghĩa đen là những “sự rút bớt” – mà sẽ tạo thuận lợi cho việc khai thác lao động bởi Quốc vương Tây Ban Nha. Sau đó ông đã phục hồi và phỏng theo một thể chế lao động Inca được gọi là mita, mà, theo ngôn ngữ Inca, Quechua, có nghĩa là “a turn – một phiên”. Dưới hệ thống mita của họ, những người Inca đã sử dụng lao động cưỡng bức để vận hành các đồn điền được trù tính để cung cấp thực phẩm cho các đền thờ, giới quý tộc, và quân đội. Đổi lại, elite đã lo việc cứu trợ nạn đói và an ninh. Mita trong tay de Toledo, đặc biệt mita Potosí, đã trở thành sơ đồ lớn nhất và nặng nề nhất về khai thác lao động trong thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. De Toledo đã xác định một vùng lưu vực mênh mông, chạy từ giữa của Peru hiện đại và bao gồm hầu hết Bolivia hiện đại. Nó bao phủ một diện tích khoảng hai trăm ngàn dặm vuông. Trong vùng này, một phần bảy cư dân đàn ông, mới đến các reduccion của họ, được yêu cầu làm việc tại các mỏ ở Potosí. Mita Potosí đã tồn tại suốt toàn bộ thời kỳ thuộc địa và đã chỉ bị bãi bỏ vào năm 1825. Bản đồ 1 cho thấy vùng lưu vực của mita được chồng lên khoảng rộng của Đế chế Inca vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Nó minh họa mức độ mà mita đã chồng gối lên vùng trung tâm của đế chế, bao gổm thủ đô Cusco. G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 17 Đáng chú ý, bạn vẫn thấy di sản của mita ở Peru ngày nay. Hãy xét những sự khác biệt giữa các tỉnh Calca và Acomayo gần đó. Có vẻ có vài sự khác biệt giữa các tỉnh này. Cả hai đều ở trên vùng núi cao, và các hậu duệ, nói tiếng Quechua, của những người Inca sống ở mỗi tỉnh. Thế nhưng, Acomayo thì nghèo hơn nhiều, với các cư dân của nó tiêu thụ khoảng một phần ba ít hơn các cư dân ở Calca. Người dân biết điều này. Ở Acomayo họ hỏi những người nước ngoài can đảm, “Bạn không biết rằng người dân ở đây nghèo hơn người dân ở đó, ở Calca 18 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ ư? Vì sao bạn lại từng muốn đến đây?” Can đảm bởi vì là khó hơn rất nhiều để đến Acomayo từ thủ đô khu vực Cusco, trung tâm cổ xưa của đế chế Inca, so với đến Calca. Đường đến Calca được tráng lớp mặt, còn đường đến Acomayo thì trong tình trạng hư nát kinh khủng. Để đi quá Acomayo bạn cần một con ngựa hay một con la. Ở Calca và Acomayo người dân trồng cùng loại cây trồng, nhưng ở Calca họ bán chúng ở chợ để lấy tiền. Còn ở Acomayo họ nuôi trồng thực phẩm cho sự tồn tại của riêng họ. Những sự bất bình đẳng này, rõ ràng với con mắt và người dân sống ở đó, có thể được hiểu dưới dạng những khác biệt thể chế giữa các tỉnh này – những sự khác biệt thể chế với gốc rễ quay lại đến de Toledo và kế hoạch khai thác hiệu quả lao động bản địa của ông. Sự khác biệt lịch sử chính giữa Acomayo và Calco là, Acomayo đã ở trong vùng mita Potosí, còn Calca thì không. Ngoài sự tập trung lao động và mita, de Toledo đã củng cố encomienda thành thuế thân, một khoản cố định bằng bạc mà mỗi người đàn ông trưởng thành phải nộp hàng năm. Đấy đã là một sơ đồ khác được trù tính để buộc người dân vào thị trường lao động và giảm bớt lương [có lợi] cho các địa chủ Tây Ban Nha. Một thể chế khác, repartimiento de mercancias, cũng đã trở nên phổ biến trong nhiệm kỳ của de Toledo. Có xuất xứ từ động từ tiếng Tây Ban Nha repartir, phân chia, repartimiento này, nghĩa đen là “phân phối hàng hóa”, dính dáng đến việc cưỡng bức bán hàng hóa cho những người địa phương với giá do những người Tây Ban Nha quyết định. Cuối cùng, de Toledo đã đưa ra trajin – theo nghĩa đen có nghĩa là “gánh nặng” – mà đã sử dụng những người bản địa để mang vác các hàng hóa nặng, như rượu hay lá coca hay hàng dệt may, như cái thay thế cho bầy động vật, cho những công việc kinh doanh mạo hiểm của elite Tây Ban Nha. Khắp thế giới thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, các thể chế và các cấu trúc xã hội tương tự đã nổi lên. Sau giai đoạn ban đầu của sự cướp bóc, và sự thèm khát vàng và bạc, những người Tây Ban Nha đã tạo ra một mạng lưới các thể chế được trù tính để khai thác người dân bản địa. Cung bậc đầy đủ của encomienda, mita, repartimiento, và trajin đã được thiết kế để ép mức sống của những người bản địa xuống mức đủ sống qua ngày và như thế moi tất cả thu nhập thặng dư của việc này cho những người Tây Ban Nha. Việc này đã đạt được bằng cách tước đoạt đất của họ, cưỡng bức họ lao động, trả lương thấp cho các dịch vụ lao động của họ, áp đặt các loại thuế cao, tính giá cao cho các hàng hóa đã thậm chí không G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 19 được mua một cách tự nguyện. Tuy các thể chế này đã tạo ra nhiều của cải cho Quốc vương Tây Ban Nha và đã làm cho những kẻ chinh phục và các hậu duệ của họ rất giàu, chúng cũng đã biến Mỹ Latin thành lục địa bất bình đẳng nhất thế giới và đã làm hao mòn nhiều tiềm năng kinh tế của nó. … ĐẾN JAMESTOWN Khi những người Tây Ban Nha bắt đầu cuộc chinh phục châu Mỹ của họ trong các năm 1490, nước Anh còn là một cường quốc nhỏ ở châu Âu, đang phục hồi từ những hệ quả tàn phá của cuộc nội chiến, các cuộc Chiến tranh Hoa Hồng. Nó đã không ở trong trạng thái để tận dụng sự tranh giành cướp bóc và vàng và cơ hội để khai thác những người bản địa của châu Mỹ. Gần một trăm năm sau, vào năm 1588, sự thảm bại may mắn của Armada Tây Ban Nha, một mưu toan của Vua Tây Ban Nha Philip II để xâm lăng Anh, đã gửi làn sóng sốc chính trị khắp châu Âu. Dẫu thắng lợi của Anh đã có may mắn đến đâu, nó cũng đã là một dấu hiệu về sự quả quyết ngày càng tăng của Anh trên biển, điều mà sẽ cho phép họ rốt cuộc tham gia vào việc theo đuổi đế chế thuộc địa. Như thế đã không phải ngẫu nhiên rằng những người Anh bắt đầu cuộc thuộc địa hóa Bắc Mỹ của họ chính xác vào cùng thời gian đó. Nhưng họ đã là những người đến muộn rồi. Họ đã chọn Bắc Mỹ không phải vì nó hấp dẫn, mà bởi vì đó là tất cả cái sẵn có còn lại. Các phần “đáng mong muốn” của châu Mỹ, nơi dồi dào những người bản địa để khai thác và nơi có các mỏ vàng và bạc, đã bị chiếm mất rồi. Người Anh đã nhận các phần còn thừa. Khi nhà văn nhà nông học Anh thế kỷ mười tám Arthur Young bàn về nơi sản xuất “các sản phẩm chính” có lời, mà ông hiểu các sản phẩm chính là các hàng hóa nông nghiệp có thể xuất khẩu được, đã lưu ý Có vẻ xét trên mọi mặt, rằng việc sản xuất các sản phẩm chính của các thuộc địa của chúng ta giảm về giá trị theo tỷ lệ với khoảng cách của chúng đến mặt trời. Ở các vùng Tây Ấn, mà là các vùng nóng nhất, chúng đạt mức 8l. 12s. 1d. trên đầu người. Trong các vùng lục địa phương nam, đạt mức 5l. 10s. Trong các vùng miền trung, đạt mức 9s. 6½d. Trong các vùng định cư phương bắc, đạt mức 2s. 6d. Tỷ 20 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ lệ này chắc chắn gợi ý một bài học quan trọng nhất – tránh việc thuộc địa hóa ở các vùng miền bắc. Mưu toan đầu tiên của người Anh để lập một thuộc địa, tại Roanoke, ở Bắc Carolina, giữa 1585 và 1587, đã hoàn toàn thất bại. Vào năm 1607, họ lại thử lần nữa. Ngay trước khi kết thúc năm 1606, ba tàu, Susan Constant, Godspeed, và Discovery, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Christopher Newport, đã khởi hành đến Virginia. Các nhà thực dân, dưới sự bảo trợ của Công ty Virginia, đã tiến vào Vịnh Chesapeake và ngược lên một con sông mà họ đã gọi là sông James, theo tên Quốc vương Anh đang trị vì, James I. Ngày 14-5-1607, họ đã lập ra khu định cư Jamestown. Tuy những người định cư trên boong tàu do Công ty Virginia sở hữu đã là những người Anh, họ đã có một mô hình thuộc địa hóa bị ảnh hưởng mạnh bởi mẫu do Cortés, Pizzaro, và de Toledo dựng lên. Kế hoạch đầu tiên của họ đã là đi bắt thủ lĩnh địa phương và sử dụng ông ta như cách để được cung cấp lương thực thực phẩm, và để cưỡng bức dân cư sản xuất thực phẩm và của cải cho họ. Khi lần đầu tiên đổ bộ lên Jamestown, các thực dân Anh đã không biết rằng họ ở bên trong lãnh thổ được yêu sách bởi Hợp bang Powhatan, một liên minh của khoảng ba mươi chính thể thừa nhận lòng trung thành với một vị vua được gọi là Wahunsunacock. Thủ đô của Wahunsunacock đã là thị trấn Werowocomoco, chỉ cách Jemestown có hai mươi dặm. Kế hoạch của các nhà thực dân đã là tìm hiểu thêm về thế đất [địa hình địa thế và tình hình] ở đây. Nếu không thể xui khiến được những người địa phương để cung cấp thức ăn và lao động, các nhà thuộc địa chí ít có khả năng để trao đổi với họ. Ý niệm rằng bản thân những người định cư sẽ làm việc và nuôi trồng thực phẩm riêng của họ có vẻ đã không thoáng qua đầu óc họ. Đó không phải là việc mà các nhà chinh phục Thế giới Mới đã làm. Wahunsunacock mau chóng nhận thức được về sự hiện diện của các nhà thuộc địa và đã xem xét các ý định của họ với sự nghi ngờ lớn. Ông đã chịu trách nhiệm về cái đối với Bắc Mỹ quả thực là một đế chế rất rộng. Nhưng ông đã có nhiều kẻ thù và thiếu sự tập trung chính trị áp đảo của những người Inca. Wahunsunacock G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 21 đã quyết định để thăm dò xem ý định của những người Anh là gì, ban đầu gửi những người đưa tin nói rằng ông muốn có quan hệ hữu hảo với họ. Khi mùa đông năm 1607 khép lại, những người định cư ở Jamestown bắt đầu cạn kiệt thức ăn, và người lãnh đạo được chỉ định của hội đồng cai trị thuộc địa, Edward Marie Wingfield, đã chần chừ lưỡng lự. Tình hình đã được Đại úy John Smith cứu vớt. Smith, mà các bài viết của ông đã cung cấp một trong những nguồn thông tin chính của chúng ta về sự phát triển ban đầu của thuộc địa, là một nhân vật rất ấn tượng. Sinh ra ở Anh, tại vùng nông thôn Lincolnshire, ông đã coi thường các mong muốn của cha mình đối với ông để đi kinh doanh và thay vào đó đã trở thành một người lính gặp may. Đầu tiên ông đã chiến đấu với quân đội Anh ở Hà Lan, sau đó ông gia nhập lực lượng Áo phục vụ ở Hungary chiến đấu chống quân đội của Đế chế Ottoman. Bị bắt ở Rumani, ông đã bị bán như nô lệ và bị đưa đi làm như một người phụ việc ngoài đồng. Một ngày ông đã tìm được cách thắng ông chủ của mình, ăn trộm quần áo và ngựa của ông chủ, trốn trở lại lãnh thổ Áo. Smith đã chuốc lấy rắc rối cho mình trên hành trình đến Virginia và đã bị nhốt trên tàu Susan Constant vì sự nổi loạn coi thường mệnh lệnh của Wingfield. Khi tàu đến Thế giới Mới, kế hoạch đã là đưa ông ra xử. Trước sự vô cùng kinh tởm của Wingfield, Newort, và các nhà thuộc địa elite khác, tuy vậy, khi họ mở các lệnh được niêm phong gắn xi của họ, họ đã phát hiện ra rằng Công ty Virginia đã bổ nhiệm Smith làm một thành viên của hội đồng cai trị để cai quản Jamestown. Với Newport lái tàu quay lại Anh lấy hàng cung ứng và nhiều nhà thuộc địa hơn, và Wingfield không chắc chắn về phải làm gì, chính Smith đã là người cứu thuộc địa. Ông đã khởi xướng một loạt chuyến buôn mà đã đảm bảo sự cung ứng thực phẩm trọng yếu. Trong một trong các chuyến này ông đã bị Opechancanough, một trong những người em của Wahunsunacock, bắt và bị đưa về trước mặt nhà vua ở Werowocomoco. Ông đã là người Anh đầu tiên gặp Wahunsunacock, và chính đã là tại cuộc gặp gỡ ban đầu này mà theo một số tường thuật cuộc sống của Smith đã được cứu chỉ do sự can thiệp của Pocahontas, em gái của Wahunsunacock. Được trả tự do ngày 2-1-1608, Smith đã quay lại Jamestown, mà vẫn cạn kiệt thực phẩm ở mức nguy hiểm, cho đến sự quay trở lại kịp thời của Newport từ nước Anh muộn hơn cùng ngày hôm đó. Các nhà thuộc địa của Jamestown đã học được ít từ kinh nghiệm ban đầu này. Khi năm 1608 tiếp diễn, họ tiếp tục tìm vàng và kim loại quý của mình. Họ vẫn có 22 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ vẻ chưa hiểu rằng để tồn tại, họ không thể dựa vào những người địa phương để cho họ ăn thông qua hoặc sự cưỡng bức hay sự buôn bán. Chính Smith là người đầu tiên đã nhận ra rằng mô hình thuộc địa hóa mà đã hoạt động rất tốt cho Cortés và Pizzaro đơn giản sẽ không hoạt động ở Bắc Mỹ. Hoàn cảnh cơ bản thật khác nhau. Smith đã lưu ý thấy, không giống những người Aztec và Inca, người dân ở Virginia đã không có vàng. Thật vậy, ông ghi chép trong nhật ký của mình, “Bạn phải biết thực phẩm là tất cả tài sản của họ”. Anas Todkill, một trong những người định cư ban đầu người đã để lại một nhật ký rộng lớn, đã bày tỏ rõ những thất vọng của Smith và vài người khác mà dựa vào đó sự thừa nhận này trở nên rõ ràng hơn “Đã không có trò chuyện, không có hy vọng, không có công việc, trừ đào vàng, tinh chế vàng, chất vàng”. Khi Newport lái tàu về nước Anh tháng Tư năm 1608 ông đã chở chuyến hàng pyrite, vàng của thằng ngốc. Ông đã quay lại vào cuối tháng Chín với các mệnh lệnh của Công ty Virginia để giữ sự kiểm soát chặt hơn đối với những người địa phương. Kế hoạch của họ đã là phong vương cho Wahunsunacock, hy vọng rằng việc này sẽ làm cho ông ta phụ thuộc vào vua Anh James I. Họ đã mời ông đến Jamestown, nhưng Wahunsunacock, vẫn nghi ngờ các nhà thuộc địa một cách sâu sắc, đã không có ý định chịu rủi ro bị bắt. John Smith đã ghi lại trả lời của Wahunsunacock “Nếu đức Vua của các ngươi gửi quà cho trẫm, trẫm cũng là một vị Vua, và đây là đất của trẫm … Cha của các ngươi phải đến chỗ trẫm, không phải trẫm đến chỗ ông ta, chẳng đến pháo đài của các ngươi, mà trẫm cũng sẽ không cắn một cái mồi như vậy”. Nếu Wahunsunacock không “cắn mồi như vậy”, thì Newport và Smith sẽ phải đi đến Werowocomoco để tiến hành việc phong vương. Toàn bộ sự kiện có vẻ đã là một sự thất bại hoàn toàn với thứ duy nhất lộ ra từ đó, một quyết tâm từ phía Wahunsunacock rằng đó là lúc thoát khỏi thuộc địa. Ông đã áp đặt một sự cấm vận thương mại. Jamestown sẽ không còn có thể trao đổi lấy hàng cung ứng. Wahunsunacock sẽ làm họ chết đói. Newport căng buồm một lần nữa về Anh, vào tháng 12-1608. Ông đã mang theo mình một lá thư do Smith viết cầu xin các giám đốc của Công ty Virginia thay đổi cách nghĩ của họ về thuộc địa. Đã không có khả năng về một sự khai thác G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 23 trở-nên-giàu-nhanh của Virginia theo đường lối của Mexico và Peru. Đã không có vàng hay kim loại quý, và đã không thể cưỡng bức người dân bản địa để làm việc hay để cung cấp thực phẩm. Smith đã nhận ra rằng nếu muốn có một thuộc địa có thể đứng vững được, thì chính các nhà thuộc địa là những người phải làm việc. Vì thế ông đã cầu xin các giám đốc gửi những loại người phù hợp “Khi các ngài gửi lần nữa tôi van xin các ngài hãy gửi khoảng ba mươi thợ mộc, cặp vợ chồng, những người làm vườn, những người đánh cá, các thợ rèn, các thợ nề, và những người đào cây, rễ cây, được chu cấp tốt, rồi cả ngàn người như thế khi chúng ta có.” Smith đã không muốn các thợ kim hoàn vô dụng nữa. Một lần nữa Jamestown đã sống sót chỉ bởi vì tài tháo vát của ông. Ông đã tìm được cách để tán tỉnh và bắt nạt các nhóm bản địa địa phương để trao đổi với ông, và khi chúng không thể, ông đã làm cái ông có thể. Phía sau ở khu định cư, Smith đã hoàn toàn chịu trách nhiệm và đã áp đặt quy tắc rằng “ai không làm thì đừng ăn”. Jemestown đã sống sót qua mùa đông thứ hai. Công ty Virginia dự định là một doanh nghiệp làm ra tiền, và sau hai năm thảm hại, đã chẳng thấy tăm hơi nào của lợi nhuận. Các giám đốc của công ty đã quyết định rằng họ cần một mô hình quản trị mới, thay thế hội đồng cai trị bằng một thống đốc duy nhất, Người đầu tiên được bổ nhiệm vào chức vụ này đã là Sir Thomas Gates. Lưu ý đến một số khía cạnh của sự cảnh báo của Smith, công ty đã nhận ra rằng họ phải thử cái gì đó mới. Sự nhận thức này đã được hiểu rõ bởi những sự kiện của mùa đông 1609/1610 – bởi cái gọi là “thời chết đói”. Cách thức quản trị mới đã không có chỗ cho Smith, người bực bội, đã trở về Anh vào mùa thu năm 1609. Không có tài xoay xở của ông và với Wahunsunacock bóp nghẹt việc cung cấp thực phẩm, các nhà thuộc địa của Jamestown đã chết. Trong số năm trăm người đã bước vào mùa đông, chỉ sáu mươi người còn sống vào tháng Ba. Tình hình đã tuyệt vọng đến mức họ đã phải quay sang ăn thịt người. “Cái gì đó mới” mà đã được áp đặt lên thuộc địa bởi Gates và người phó của ông, Sir Thomas Dale, đã là một chế độ lao động nghiêm ngặt hà khắc đối với những người định cư Anh – tuy tất nhiên không phải đối với elite vận hành thuộc địa. Chính Dale là người đã truyền bá “Luật Thánh thần, Luân lý và Quân sự”. Luật này bao gồm các điều khoản 24 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ Không đàn ông hay đàn bà nào được chạy từ thuộc địa sang những người Indian, bị tội chết. G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 25 Bất cứ ai cướp một vườn, tư hay công, hay một vườn nho, hay người ăn cắp các bắp ngô sẽ bị phạt tội chết. Không thành viên nào của thuộc địa sẽ bán hay cho bất cứ hàng hóa nào của nước này cho một thuyền trưởng, thủy thủ, ông chủ hay thủy thủ để chở khỏi thuộc địa, cho việc sử dụng riêng của anh ta, bị tội chết. Nếu những người bản địa không được khai thác, Công ty Virginia lý luận, có lẽ các nhà thuộc địa có thể. Mô hình mới về phát triển thuộc địa đòi hỏi Công ty Virginia làm chủ toàn bộ đất. Đàn ông phải ở trong các doanh trại, và được cấp khẩu phần do công ty quyết định. Các đội làm việc được lựa chọn, mỗi đội được giám sát bởi một đại diện của công ty. Nó đã gần với thiết quân luật, với việc hành hình như sự trừng phạt dùng đến đầu tiên. Như một phần của các thể chế mới cho thuộc địa, điều đầu tiên vừa được trích là quan trọng. Công ty đe dọa giết những người bỏ đi. Căn cứ vào chế độ lao động mới, bỏ đi để sống với những người địa phương đã trở thành một lựa chọn ngày càng hấp dẫn cho các nhà thuộc địa phải làm việc. Căn cứ vào mật độ thấp của dân cư bản địa ở Virginia thời đó, cũng đã có triển vọng để bỏ đi một mình ra vùng biên cương ngoài tầm kiểm soát của Công ty Virginia. Quyền lực của công ty là hạn chế khi đối mặt với các lựa chọn này. Nó đã không thể cưỡng bức những người định cư Anh làm việc nặng nhọc với mức khẩu phần đủ sống. Bản đồ 2 cho thấy một ước tính mật độ dân số của các vùng khác nhau của châu Mỹ vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Mật độ dân số của Hoa Kỳ, ngoài vài ổ, nhiều nhất đã là ba phần tư người trên một dặm vuông. Ở trung tâm Mexico hay Peru vùng Andes, mật độ dân số cao ở mức bốn trăm người trên một dặm vuông, cao hơn năm trăm lần. Những gì có thể ở Mexico hay Peru đã là không khả thi ở Virginia. Công ty Virginia đã cần một ít thời gian để nhận ra rằng mô hình ban đầu của nó về thuộc địa hóa đã không hoạt động ở Virginia, và cũng cần một ít thời gian nữa để thấu hiểu sự thất bại của “Luật Thánh thần, Luân lý và Quân sự”. Bắt đầu trong năm 1618, một chiến lược hết sức mới đã được chấp nhận. Vì đã không thể cưỡng bức những người địa phương cũng chẳng thể cưỡng bức những người định cư, lựa chọn khả dĩ duy nhất đã là khuyến khích những người định cư. Năm 1618 công ty bắt đầu “hệ thống quyền đầu người – headright system”, cấp cho mỗi 26 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ người đàn ông định cư năm mươi mẫu đất [một mẫu Anh, acre, bằng khoảng m2 ] và thêm năm mươi mẫu cho mỗi thành viên gia đình của ông ta và cho tất cả các đầy tớ mà gia đình có thể mang sang Virginia. Những người định cư được cho nhà ở và được giải phóng khỏi các hợp đồng, và năm 1619 một Đại Hội đồng General Assembly được đặt ra mà trên thực tế đã cho tất cả những người đàn ông trưởng thành quyền quyết định về các luật và các thể chế cai trị thuộc địa. Nó đã là khởi đầu của nền dân chủ ở Hoa Kỳ. Công ty Virginia đã cần đến mười hai năm để học bài học đầu tiên của mình rằng những gì đã hoạt động cho người Tây Ban Nha ở Mexico và ở Trung và Nam Mỹ sẽ không hoạt động ở miền bắc. Phần còn lại của thế kỷ thứ mười bảy đã trải qua một chuỗi dài các cuộc đấu tranh về bài học thứ hai lựa chọn duy nhất cho một thuộc địa có thể đứng vững về mặt kinh tế đã là tạo ra các thể chế khuyến khích các nhà thuộc địa đầu tư và làm việc cần cù. Trong khi mà Bắc Mỹ phát triển, các elite Anh hết lần này đến lần khác đã thử dựng lên các thể chế mà chúng hạn chế nặng nề đến các quyền kinh tế và chính trị của tất cả mọi người trừ một số ít có đặc quyền trong dân cư của thuộc địa, hệt như những người Tây Ban Nha đã làm. Thế nhưng trong mỗi trường hợp mô hình này đã sụp đổ, như nó đã thất bại ở Virginia. Một trong những nỗ lực tham vọng nhất đã bắt đầu không lâu sau sự thay đổi chiến lược của Công ty Virginia. Năm 1632 mười triệu mẫu đất ở phần trên vùng Vịnh Cheasapeake đã được vua Anh Charles I ban cho Cecilius Calbert, Lord Baltimore. Hiến chương của Maryland đã trao cho Lord Baltimore quyền tự do hoàn toàn để lập ra một chính phủ theo bất cứ đường lối nào ông muốn, với điều VI lưu ý rằng Baltimore đã có “Quyền lực tự do, đầy đủ, và tuyệt đối, theo ý nghĩa tổng quát của các Tặng phẩm này, để Quy định, Làm, và Ban hành các Đạo Luật, thuộc bất cứ Loại nào, cho Chính phủ có đức hạnh và tốt phúc của Tỉnh được nói đến này”. Baltimore đã thảo một kế hoạch chi tiết để tạo ra một xã hội thái ấp, một biến thể Bắc Mỹ của một phiên bản được lý tưởng hóa của nước Anh thôn quê thế kỷ mười bảy. Nó đòi hỏi việc chia đất thành các lô hàng ngàn mẫu, mà sẽ được các lord chúa vận hành. Các chúa sẽ tuyển mộ những người thuê, những người sẽ canh tác đất và nộp tô tiền thuê cho elite có đặc quyền và đang kiểm soát đất. G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 27 Một nỗ lực tương tự đã được đưa ra muộn hơn trong năm 1663, với việc thành lập Carolina bởi tám chủ sở hữu, kể cả Sir Anthony Ashley-Cooper. Ashley-Cooper cùng với thư ký của mình, nhà triết học Anh vĩ đại John Locke, đã trình bày Hiến pháp Cơ bản của Carolina. Tài liệu này, giống Hiến chương Maryland trước nó, đã cung cấp một kế hoạch chi tiết cho một xã hội tinh hoa chủ nghĩa, có thứ bậc dựa trên sự kiểm soát bởi một elite có nhiều đất đai. Lời mở đầu ghi rằng “chính phủ của tỉnh này có thể trở nên thích hợp nhất với nền quân chủ mà dưới đó chúng ta sống mà tỉnh này là một phần; và rằng chúng ta có thể tránh được việc dựng lên một nền dân chủ đông đảo”. Các điều khoản của Hiến pháp Cơ bản đặt ra một cấu trúc xã hội cứng nhắc. Ở dưới cùng là “những người-leet” leet-men, với điều khoản 23 ghi, “Tất cả con của những người leet sẽ là những người leet, và cứ như thế cho mọi thế hệ”. Trên những người leet, những người không có quyền chính trị nào, là các lãnh chúa landgrave và các tộc trưởng cazique, những người tạo thành giới quý tộc. Mỗi lãnh chúa được phân cho bốn mươi tám ngàn mẫu, mỗi tộc trưởng được hai mươi bốn ngàn mẫu. Đã có một quốc hội đại diện cho các lãnh chúa và tộc trưởng, nhưng nó sẽ được phép để tranh luận chỉ các biện pháp mà đã được tám chủ sở hữu chấp thuận trước. Hệt như nỗ lực áp đặt các quy tắc hà khắc ở Virginia đã thất bại, các kế hoạch cho cùng loại các thể chế ở Maryland và Carolina cũng thế. Các lý do là giống nhau. Trong mọi trường hợp đã chứng tỏ là không thể ép buộc những người định cư vào một xã hội có thứ bậc cứng nhắc, bởi vì đơn giản đã có quá nhiều lựa chọn mở ra cho họ ở Thế giới Mới. Thay vào đó, phải cung cấp cho họ các khuyến khích để họ muốn làm việc. Và chẳng bao lâu họ đã đòi nhiều quyền tự do kinh tế hơn và thêm các quyền chính trị nữa. Cả ở Maryland nữa, những người định cư khăng khăng đòi có được đất riêng của họ, và họ đã buộc Lord Baltimore vào việc tạo ra một hội đồng. Vào năm 1691, hội đồng đã xui khiến vua tuyên bố Maryland là một thuộc địa thuộc Quốc vương [Crown colony, nên chưa được độc lập], như thế loại bỏ các đặc quyền chính trị của Baltimore và các đại lãnh chúa của ông. Một cuộc chiến đấu kéo dài tương tự đã xảy ra ở Carolina, lại lần nữa với các chủ sở hữu bị thua. Nam Carolina trở thành thuộc địa hoàng gia vào năm 1729. Vào các năm 1720, tất cả mười ba thuộc địa của cái sẽ trở thành Hoa Kỳ đã có các cấu trúc chính phủ giống nhau. Trong mọi trường hợp đã có một thống đốc, 28 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ và một hội đồng dựa vào quyền bầu cử của những người đàn ông chủ tài sản. Chúng đã chưa phải là các nền dân chủ; phụ nữ, nô lệ, và những người không có tài sản đã không được bỏ phiếu. Nhưng các quyền chính trị đã là rất rộng so với các xã hội đương thời ở nơi khác. Chính các hội đồng này và các nhà lãnh đạo của chúng là cái đã hợp lại để hình thành Quốc hội Lục địa Đầu tiên First Continental Congress vào năm 1774, khúc dạo đầu cho sự độc lập của Hoa Kỳ. Các hội đồng đã tin họ có quyền để quyết định cả tư cách thành viên riêng của họ lẫn quyền đánh thuế. Điều này, như chúng ta biết, gây ra các vấn đề đối với chính phủ thuộc địa Anh. CÂU CHUYỆN VỀ HAI HIẾN PHÁP Bây giờ phải là rõ ràng, rằng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico, đã thông qua và thực thi một hiến pháp tán thành các nguyên tắc dân chủ, tạo ra các hạn chế về việc sử dụng quyền lực chính trị, và phân phối quyền lực đó một cách rộng rãi trong xã hội. Văn kiện mà các đại biểu đã ngồi xuống để viết ở Philadelphia năm 1787 đã là kết quả của một quá trình dài được khởi đầu bằng sự hình thành của Đại Hội đồng ở Jamestown năm 1619. Sự tương phản giữa quá trình lập hiến xảy ra vào thời độc lập của Hoa Kỳ và quá trình xảy ra sau đó một chút ở Mexico lộ rõ hẳn ra. Trong tháng Hai 1808, quân đội Pháp của Napoleon Bonaparte đã xâm lăng Tây Ban Nha. Vào tháng Năm họ đã lấy được Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Vào tháng Chín vua Tây Ban Nha Ferdinal đã bị bắt và đã thoái vị. Một junta hội đồng hành chính quốc gia, Junta Trung ương, đã thế chỗ ông, cầm ngọn đuốc trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Junta họp lần đầu tiên tại Aranjuez, nhưng đã rút lui xuống phía nam trước quân đội Pháp. Cuối cùng nó đã đến cảng Cádiz, mà, tuy bị các lực lượng Napoleonic bao vây, vẫn đã đứng vững. Ở đây Junta đã thành lập một quốc hội, được gọi là Cortes. Năm 1812 Cortes đã tạo ra cái được biết đến như Hiến pháp Cádiz, mà nó kêu gọi việc lập ra một nền quân chủ lập hiến dựa trên những quan niệm của chủ quyền nhân dân. Nó cũng đã kêu gọi chấm dứt các đặc quyền và đưa vào sự bình đẳng trước pháp luật. Elite của Nam Mỹ, những người vẫn cai trị trong một môi trường, do encomienda, lao động cưỡng bức, và quyền lực tuyệt G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 29 đối được ban cho họ và nhà nước thuộc địa định hình, đã ghét cay ghét đắng những đòi hỏi này. Sự sụp đổ của nhà nước Tây Ban Nha với sự xâm lược Napoleon đã tạo ra một khủng hoảng hiến pháp trên khắp Mỹ Latin thuộc địa. Đã có tranh luận nhiều về liệu có thừa nhận thẩm quyền của Junta Trung ương hay không, và đáp lại, nhiều người Mỹ Latin đã bắt đầu thành lập các junta riêng của họ. Đã chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi họ bắt đầu ý thức được khả năng trở thành thực sự độc lập với Tây Ban Nha. Tuyên bố độc lập đầu tiên đã xảy ra ở La Paz, Bolivia, năm 1809, tuy nó đã nhanh chóng bị nghiền nát bởi binh lính Tây Ban Nha được gửi từ Peru sang. Tại Mexico thái độ chính trị của elite đã được định hình bởi cuộc Nổi loạn Hidalgo năm 1810, được lãnh đạo bởi một linh mục, Cha Miguel Hidalgo. Khi quân đội của Hidalgo cướp phá Guanajuato ngày 23 tháng Chín, họ đã giết quản đốc, quan chức thuộc địa cấp cao, và sau đó đã bắt đầu giết những người gia trắng một cách không phân biệt. Nó đã giống một cuộc chiến tranh giai cấp hay sắc tộc hơn là một phong trào độc lập, và nó đã hiệp nhất tất cả elite trong phe đối lập. Nếu sự độc lập cho phép sự tham gia của nhân dân vào chính trị, elite địa phương, không chỉ những người Tây Ban Nha, đã chống lại nó. Hệ quả là, elite Mexico đã xem xét Hiến pháp Cádiz, mà đã mở đường cho sự tham gia của nhân dân, với sự ngờ vực cực kỳ; họ sẽ chẳng bao giờ công nhận tính hợp pháp của nó. Năm 1815, khi đế chế Âu châu của Napoleon sụp đổ, Vua Ferdinand VII quay lại nắm quyền và Hiến pháp Cádiz đã bị bãi bỏ. Khi Quốc Vương Tây Ban Nha bắt đầu thử đòi lại các thuộc địa Mỹ của nó, nó đã không gặp khó khăn với Mexico trung thành. Thế nhưng, năm 1820, một đội quân Tây Ban Nha đã tụ tập ở Cádiz để đi tàu sang châu Mỹ giúp khôi phục lại thẩm quyền Tây Ban Nha đã nổi loạn chống Ferdinand VII. Các lực lượng quân đội khắp nước đã gia nhập với họ, và Ferdinand đã buộc phải khôi phục Hiến pháp Cádiz và triệu tập lại Cortes. Cortes này thậm chí còn cấp tiến hơn Cortes đã soạn ra Hiến pháp Cádiz, và nó đã đề xuất xóa bỏ mọi hình thức cưỡng bức lao động. Nó cũng đã tấn công các đặc quyền đặc biệt – thí dụ, quyền của quân đội để được xử các tội hình sự tại các tòa án riêng của họ. Đối mặt cuối cùng với sự áp đặt văn kiện này ở Mexico, elite ở đó đã quyết định rằng tốt hơn nếu nó đi một mình và tuyên bố độc lập. Phong trào độc lập này đã được lãnh đạo bởi Augustín de Iturbide, người đã là một sỹ quan trong quân đội Tây Ban Nha. Ngày 24-2-1821, ông công bố Plan de 30 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ Iguala Kế hoạch Iguala, tầm nhìn của ông cho một Mexico độc lập. Kế hoạch đã đề cao một nền quân chủ lập hiến với một hoàng đế Mexic, và đã loại bỏ các quy định của Hiến pháp Cádiz mà elite Mexic thấy rất đe dọa đến địa vị và các đặc quyền của họ. Nó đã nhận được sự ủng hộ tức thời, và Tây Ban Nha đã nhanh chóng nhận ra rằng nó không thể ngăn cái không thể tránh khỏi. Nhưng Iturbide đã không chỉ tổ chức sự ly khai Mexic. Nhận ra chân không quyền lực, ông đã nhanh chóng tận dụng sự ủng hộ của quân đội, ông đã tự tuyên bố mình là hoàng đế, một vị trí mà nhà lãnh đạo vĩ đại của nền độc lập Nam Mỹ, Simón Bolivar, đã mô tả như “nhờ ân sủng của Chúa và của lưỡi lê”. Iturbide đã không bị ràng buộc bởi cùng các thể chế chính trị mà các tổng thống Hoa Kỳ bị hạn chế; ông đã nhanh chóng biến mình thành một kẻ độc tài, và vào tháng Mười 1822, ông đã giải tán quốc hội được phê chuẩn một cách hợp hiến và đã thay thế nó bằng một junta do ông chọn. Tuy [triều đại] Iturbide đã không kéo dài, nhưng hình mẫu này của các sự kiện đã lặp đi lặp lại ở Mexico thế kỷ thứ mười chín. Hiến pháp Hoa Kỳ đã không tạo ra một nền dân chủ theo các tiêu chuẩn hiện đại. Ai có thể bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử đã được để cho từng bang quyết định. Trong khi các bang miền bắc đã nhanh chóng thừa nhận quyền bỏ phiếu của tất cả những đàn ông da trắng bất kể họ nhận được bao nhiêu thu nhập hay có bao nhiêu tài sản, còn các bang miền nam đã chỉ làm vậy một cách từ từ. Không bang nào đã trao quyền bầu cử cho phụ nữ hay các nô lệ, và khi những hạn chế về tài sản và của cải đã được bãi bỏ đối với đàn ông gia trắng, việc tước quyền bầu cử của các đàn ông da đen đã được đưa vào một cách tường minh. Chế độ nô lệ, tất nhiên, đã được coi là hợp hiến khi Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn ở Philadelphia, và sự thương lượng đê tiện nhất đã liên quan đến việc phân chia các ghế trong Hạ viện giữa các bang. Các ghế này được phân bổ trên cơ sở dân số của mỗi bang, nhưng các đại biểu quốc hội của các bang miền nam khi đó đã đòi hỏi rằng các nô lệ phải được tính. Những người miền bắc đã phản đối. Sự thỏa hiệp đã là trong chia phần các ghế Hạ viện, một nô lệ sẽ được tính như ba phần năm của một người tự do. Các xung đột giữa miền Bắc và miền Nam của Hoa Kỳ đã được kiềm chế trong quá trình lập hiến vì quy tắc ba phần năm và những thỏa hiệp khác đã được nghĩ ra. Những sang sửa mới được thêm vào theo thời gian – thí dụ, Thỏa hiệp Missouri, một dàn xếp nơi một bang ủng hộ chế độ nô lệ và một bang phản đối chế độ nô lệ đã luôn luôn được cộng thêm vào toàn liên bang, để giữ sự cân bằng trong Thượng viện gữa các bang ủng hộ và chống đối chế độ nô lệ. Những G N TH VÀ V N R T KHÁC NHAU Ầ Ế Ẫ Ấ ● 31 chuyện vớ vẩn này đã giữ các thể chế chính trị của Hoa Kỳ hoạt động một cách yên bình cho đến khi Nội Chiến cuối cùng đã giải quyết các xung đột theo cách có lợi cho miền Bắc. Nội Chiến đã đẫm máu và tàn phá. Nhưng cả trước và sau chiến tranh đã có nhiều cơ hội kinh tế cho một phần lớn dân số, đặc biệt ở miền bắc và miền tây Hoa Kỳ. Tình hình ở Mexico đã rất khác. Nếu Hoa Kỳ đã trải qua năm năm bất ổn chính trị giữa 1860 và 1865, thì Mexico đã trải nghiệm sự bất ổn hầu như không ngừng suốt năm mươi năm đầu của sự độc lập. Việc này được minh họa khéo nhất qua sự nghiệp của Antonio Lospez de Santa Ana. Santa Ana, con của một quan chức thuộc địa ở Veracruz, trở nên nổi bật như một người lính chiến đấu cho Tây Ban Nha trong các cuộc chiến tranh độc lập. Năm 1821, ông đã chuyển sang phía Iturbide và đã không bao giờ nhìn lại. Ông đã trở thành tổng thống Mexico lần đầu tiên vào tháng Năm 1833, tuy ông thực hiện quyền lực ít hơn một tháng, thích để cho Valentín Gómez Farías hành động với tư cách tổng thống hơn. Nhiệm kỳ tổng thống của Gómez Farías kéo dài mười lăm ngày, sau đó Santa Ana nắm lại quyền lực. Tuy nhiên, đấy đã ngắn như phiên đầu tiên của ông, và ông đã lại bị Gómez Farías thay thế, vào đầu tháng Bảy. Santa Ana và Gómez Farías đã tiếp tục điệu nhảy này cho đến giữa 1835, khi Santa Ana bị Miguel Barragán thay thế. Nhưng Santa Ana đã không là một kẻ bỏ cuộc. Ông đã quay lại làm tổng thống trong các năm 1839, 1841, 1844, 1847, và, cuối cùng, giữa 1853 và 1855. Tổng cộng, ông đã là tổng thống mười một lần, trong đó ông đã chịu trách nhiệm về việc để mất Alamo và Texas và chiến tranh Mexic-Mỹ tai hại, mà đã dẫn đến việc để mất cái trở thành New Mexico và Arizona. Giữa 1824 và 1867 đã có năm mươi hai tổng thống ở Mexico, vài trong số đó đã nắm quyền theo thủ tục đã được phê chuẩn một cách hợp hiến. Hậu quả của sự bất ổn chính trị chưa từng có này đối với các thể chế và các khuyến khích kinh tế phải là rõ ràng. Sự bất ổn như vậy đã dẫn đến các quyền tài sản hết sức không chắc chắn. Nó cũng đã dẫn đến một sự suy yếu nghiêm trọng của nhà nước Mexic, mà bây giờ đã có ít thẩm quyền và ít khả năng để thu thuế hay cung cấp các dịch vụ công. Thực vậy, mặc dù Santa Ana đã là tổng thống ở Mexico, nhiều phần rộng lớn của nước này đã không nằm dưới sự kiểm soát của ông, mà đã cho phép việc sáp nhập Texas bởi Hoa Kỳ. Ngoài ra, như chúng ta vừa thấy, động cơ nằm đằng sau sự tuyên bố độc lập Mexic đã là để bảo vệ tập các thể 32 ● VÌ SAO CÁC QU C GIA TH T B I Ố Ấ Ạ chế kinh tế đã được phát triển trong thời kỳ thuộc địa, mà đã biến Mexico, theo lời của nhà khám phá và nhà địa lý Đức vĩ đại về Mỹ Latin, Alexander von Humbolt, trở thành “nước của sự bất bình đẳng”. Các thể chế này, do đặt cơ sở xã hội trên sự khai thác người dân bản địa và tạo ra các độc quyền, đã ngăn chặn các khuyến khích kinh tế và các sáng kiến của quảng đại quần chúng nhân dân. Trong khi Hoa Kỳ đã bắt đầu trải nghiệm Cách mạng Công nghiệp trong nửa đầu của thế kỷ thứ mười chín, thì Mexico đã trở nên nghèo hơn. CÓ MỘT Ý TƯỞNG, KHỞI ĐỘNG MỘT HÃNG, VÀ NHẬN ĐƯỢC MỘT KHOẢN VAY Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu ở nước Anh. Thành công đầu tiên của nó đã là cách mạng hóa sản xuất quần áo vải bông bằng cách sử dụng các máy mới được cung cấp lực bởi các bánh xe nước và muộn hơn bởi các động cơ hơi nước. Cơ giới hóa việc sản xuất vải bông đã làm tăng rất nhiều năng suất của những người lao động, đầu tiên trong ngành dệt may, và sau đó trong các ngành khác. Động cơ của những đột phá công nghệ trong khắp nền kinh tế là sự đổi mới sáng tạo innovation, với mũi xung kích của các doanh nhân và các nhà kinh doanh mới háo hức áp dụng các ý tưởng mới của họ. Sự nở hoa ban đầu này đã nhanh chóng lan qua Bắc Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ. Người dân đã thấy các cơ hội kinh tế to lớn sẵn có trong thích nghi các công nghệ mới được phát triển ở Anh. Họ cũng được truyền cảm hứng để phát triển các sáng chế riêng của mình. Chúng ta có thể thử để hiểu bản chất của các sáng chế này bằng cách ngó xem ai đã được cấp bằng sáng chế. Hệ thống bằng sáng chế, mà bảo vệ các quyền tài sản trong các ý tưởng, đã được hệ thống hóa trong Đạo luật về các Độc quyền được xây dựng và ban hành bởi Quốc hội Anh năm 1623, một phần như một nỗ lực để ngăn chặn nhà vua khỏi ban một cách tùy tiện “các thư bằng sáng chế” cho ai mà ngài muốn – trên thực tế cấp các quyền độc quyền để thực hiện các hoạt động hay các công việc kinh doanh nhất định. Điều nổi bật về bằng chứng cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ là, những người được cấp bằng sáng chế đến từ mọi loại xuất thân, mọi loại bối cảnh và mọi ngành nghề, chứ không chỉ là những người giàu và ưu tú. Nhiều người đã kiếm được bộn tiền hay trở nên giàu có dựa vào các bằng sáng chế của mình. Hãy xét Thomas Edison, người sáng chế ra đĩa ghi âm,
TT - Một tập sách về một đề tài thời sự vừa ra mắt bạn đọc Việt Nam Tại sao các quốc gia thất bại. Tại sao các quốc gia thất bại Nội hàm "thất bại" được hai tác giả Daron Acemoglu và James A. Robinson trình bày bằng cách giải đáp câu hỏi từng gây bối rối cho các chuyên gia qua nhiều thế kỷ Tại sao một số nước giàu còn nhiều nước khác lại nghèo, bị chia rẽ giữa phồn vinh và nghèo khó, mạnh khỏe và bệnh tật, no đủ và đói kém? Phóng toSách do NXB Trẻ ấn hành - Ảnh sách vì thế đã chạm ngay vào những thực tế khốc liệt, vĩ đại, vinh quang và cả đau đớn của nhiều quốc gia, dân tộc. Ở thời đại toàn cầu hóa, kinh nghiệm về nghệ thuật quản trị xã hội và phát triển đất nước đang ngày một cởi mở trong tương tác bằng nhiều kênh. Nhưng mấu chốt vẫn là vấn đề con người. Do đó, những vấn đề như "Các nước nghèo không phải vì yếu tố địa lý hay văn hóa, hay vì các nhà lãnh đạo đất nước không biết chính sách nào sẽ làm giàu cho dân chúng", "Sự thịnh vượng và đói nghèo được quyết định bởi các động cơ khuyến khích hình thành từ các thể chế như thế nào" được đặt ra như khía đúng điểm quan tâm chung của những người đang theo dõi cuộc chuyển biến toàn cầu hiện nay. Bằng cái nhìn bao quát và thâm nhập lịch sử của nhiều quốc gia đông tây kim cổ, hai giáo sư Daron Acemoglu và James A. Robinson lập luận rằng những quốc gia thất bại là những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này đã tổ chức xã hội để phục vụ quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần chúng nhân dân phải trả giá. Daron Acemoglu và James Robinson đã đưa ra câu trả lời và chứng minh dứt khoát rằng chính những thể chế kinh tế và chính trị do con người tạo ra là nguyên nhân của sự thành công hay không thành công về kinh tế. Tập sách là công trình nghiên cứu trong 15 năm của hai nhà kinh tế học xuất sắc và uyên bác. Ấn bản tại VN do Nguyễn Thị Kim Chi dịch cùng sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan, Vũ Thành Tự Anh hiệu đính. Tựu trung, điều cuốn sách muốn nhắm đến là những thể chế nào có những điều chỉnh, cải cách để dung hợp được các lợi ích kinh tế - chính trị và tạo điều kiện cho người dân làm ăn sinh sống được tốt nhất sẽ thành công. Như sách đã chỉ ra, ngay như Trung Quốc khi họ giải quyết được phần nào đó sự dung hợp này, họ đã có sự tăng trưởng thần kỳ. Và giờ đây họ vẫn tiếp tục giải quyết bài toán hể chế dung hợp của họ. Trở thành người đầu tiên tặng sao cho bài viết 0 0 0 Chuyển sao tặng cho thành viên x1 x5 x10 Hoặc nhập số sao
tại sao các quốc gia thất bại tiki